Thơ Tản Đà/24

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Vợ chồng người đốt than trên núi.

Bài này, khi làm việc ở Hữu-
Thanh, chữa văn lai cảo.

Đèn Hà-nội sáng choang lửa điện,
Quanh hồ Khươm xe điện cao-xu.
Rừng Ngang[1] sương khói mịt mù,
Gió âm, giăng lạnh. cây lù-rù đen.
Rừng một giải, cây chen vạn gốc;
Gốc cây rừng, một nóc nhà gianh;
Trong nhà, một ngọn đèn xanh;
Dưới đèn mờ vẽ bức tranh ba người:
Con thời quấy, vợ thời miệng dỗ,
Chồng lưi-cui đan rổ đựng than.
Đêm khuya con ngủ đèn tàn,
Một hai thế-sự, muôn vàn tình-thâm.
Chàng chăng hỡi, tri âm từ thủa,
Nỗi sinh-nhai dìu búa, bếp lò.

Nghĩ mình cũng đấng trượng-phu,
Tây nho chữ nghĩa không thua chi đời.
Đời nào đã mấy ai tài trí,
Cũng vinh hoa phú quí như không.
Cũng xe bóng, cũng ngựa hồng,
Cũng trăm, nghìn, vạn bạc đồng trong tay.
Chàng chẳng nghĩ cho tầy người khác,
Lối công danh chen bước kịp thì;
Làm cho phỉ chí nam-nhi,
Trước là phu quí, sau thì phụ vinh.
Chẳng hơn ở rừng xanh một giải?
Sớm sương non! tối lại giăng ngàn!
Bòng bong đôi mớ củi tàn!
Con reo rắt đói, vợ than thở nghèo!
— Mình mình hỡi, nghĩ sao mà hẹp!
Kiếp ở đời là kiếp phù-sinh:
Mây vàng chớp nhoáng bên mình,
Sinh sinh hóa hóa cái hình phù-du.
Xưa nay ngẫm sang giầu cũng lắm,
Cuộc trăm năm chơ nấm đất vàng.
Cõi đời nghĩ đã mơ màng.
Nỗi đời lắm nỗi nghĩ càng thêm đau:
Mình chẳng thấy kêu sầu mùa hạ?
Con quốc kia ròng-rã nắng mưa.
Ấy hồn Thục-đế khi xưa,
Bởi đâu thương tiếc, hồn chưa hóa hồn.[2]

Lại chẳng thấy kêu buồn con mối?
Tắc lưỡi kêu, khơi mối não-nùng;
Ấy xưa cự phú Thạch-Sùng,
Bởi đâu thương tiếc, cho lòng còn căm.[3]
Lại lắm kẻ còn lăm phú quí,
Lấm đầu lươn luồn lụy vào ra;
Chồng chồng vợ vợ vinh hoa,
Mà trong vinh hiển xót-xa đã nhiều.
Cũng có kẻ hồn tiêu mũi bể,
Nhọn chào tan giọt lệ gia hương.
Người thời tội gánh nợ mang,
Kẻ thời con bán vợ nhường chia tan.
Đời sâu thám muôn vàn xiết kể,
Cảnh phong-lưu ai dễ hơn thầy:
Bụi hồng mặc khách đông tây,
Quầy than đủng-đỉnh, tháng ngày tiêu-rao.
Nhà gianh cỏ leo-teo mà mát,
Cơm muối rưa xuông nhạt càng thanh.
Đòi khi ngọn núi đầu ghềnh,
Vui duyên giăng gió, mặn tình cỏ hoa.
Khi than đắt, rượu ba bẩy hớp,
Vợ, chồng, con, hòa hợp một đoàn;
Thú vui lắm thú thanh nhàn,
Khúc ca tiếng hạc, cung đàn gió thông.
Sướng đến thế, mà không biết sướng;
Còn than thân, mong tưởng như ai.

Dại đâu có dại lạ đời!
Ngu đâu mà lại có người quá ngu!
Người phải biết tự-do là thú;
Mất tự-do, còn có ra chi!
Canh tàn thôi liệu ngủ đi!
Ngủ cho đẫy giấc, mai thì bán than!

  1. Rừng Ngang là một giải rừng nhớn ở mạn tây bắc Bắc-kỳ
  2. Con quốc kêu mùa hè, người ta tương truyền rằng ấy là hồn vua nước Thục ở bên Tàu khi trước. Vua nước Thục vì sự mất nước, hồn còn tiếc nước, hóa làm con đỗ-quyên, tức là con quốc.
  3. Con mối hay tắc lưỡi, người ta tương truyền rằng ấy là ngươi Thạch-Sùng khi trước. Ngươi Thạch-Sùng, người đời nhà Tấn ở bên Tầu, nhà giầu nhất nước; sau bị cướp phá, tự vẫn chết, hồn còn tiếc của, hóa làm con mối, hay tắc lưỡi. Cho nên con mối cũng gọi là con Thạch-Sùng.