Tiền Xích Bích phú

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tiền Xích Bích phú - 前赤壁賦
của Tô Thức, do Nguyễn Phúc Miên Triện, Đào Nguyên Phổ dịch
Tiền Xích Bích Phú, bài thơ nổi tiếng của Tô Đông Pha thời nhà Tống-Bảo tàng Cố cung, Đài Loan khổ 23.9 × 258 cm
Tiền Xích Bích Phú, bài thơ nổi tiếng của Tô Đông Pha thời nhà Tống-Bảo tàng Cố cung, Đài Loan khổ 23.9 × 258 cm
Nguyên tác

壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟遊於赤壁之下。清風徐來,水波不興,舉酒屬客,誦明月之詩,歌窈窕之章。少焉,月出於東山之上,徘徊於斗牛之間,白露橫江,水光接天;縱一葦之所如,凌萬頃之茫然。浩浩乎如馮虛御風,而不知其所止;飄飄乎如遺世獨立,羽化而登仙。

  於是飲酒樂甚,扣舷而歌之。歌曰:「桂棹兮蘭槳,撃空明兮泝流光。渺渺兮予懷,望美人兮天一方。」客有吹洞簫者,倚歌而和之,其聲嗚嗚然,如怨、如慕、如泣、如訴,餘音嫋嫋,不絕如縷。舞幽壑之潛蛟,泣孤舟之嫠婦。

  蘇子愀然,正襟危坐,而問客曰:「何為其然也?」

  客曰:「『月明星稀,烏鵲南飛』此非曹孟德之詩乎?西望夏口,東望武昌,山川相繆,鬱乎蒼蒼,此非孟德之困於周郎者乎?方其破荊州,下江陵,順流而東也,舳艫千里,旌旗蔽空,釃酒臨江,橫槊賦詩,固一世之雄也,而今安在哉?況吾與子漁樵於江渚之上,侶魚蝦而友麋鹿;駕一葉之扁舟,擧匏樽以相屬。寄蜉蝣於天地,渺滄海之一粟。哀吾生之須臾,羨長江之無窮。挾飛仙以遨遊,抱明月而長終。知不可乎驟得,託遺響於悲風。」

  蘇子曰:「客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虛者如彼,而卒莫消長也,蓋將自其變者而觀之,則天地曾不能以一瞬;自其不變者而觀之,則物與我皆無盡也,而又何羨乎?且夫天地之間,物各有主,苟非吾之所有,雖一毫而莫取。惟江上之清風,與山間之明月,耳得之而為聲,目遇之而成色,取之無禁,用之不竭,是造物者之無盡藏也,而吾與子之所共適。」

  客喜而笑,洗盞更酌。肴核既盡,杯盤狼藉,相與枕藉乎舟中,不知東方之既白。

Hán Việt Bản dịch của Nguyễn Phúc Miên Triện Bản dịch của Đào Nguyên Phổ

Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng,
Tô tử dữ khách phiếm chu du ư Xích Bích chi hạ.
Thanh phong từ lai,
thuỷ ba bất hứng,
cử tửu chúc khách,
tụng Minh Nguyệt chi thi,
ca Yểu Điệu chi chương.
Thiểu yên, nguyệt xuất ư đông sơn chi thượng,
bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi gian,
bạch lộ hoành giang,
thuỷ quang tiếp thiên.
Túng nhất vi chi sở như,
lăng vạn khoảnh chi mang nhiên.
Hạo hạo hồ như bằng hư ngự phong,
nhi bất tri kỳ sở chỉ;
phiêu phiêu hồ như di thế độc lập,
vũ hoá nhi đăng tiên.
Ư thị ẩm tửu lạc thậm,
khấu huyền nhi ca chi.
Ca viết:
“Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang,
Diểu diểu hề ư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”.
Khách hữu xuý đổng tiêu giả,
ỷ ca nhi hoạ chi;
kỳ thanh ô ô nhiên,
như oán như mộ,
như khấp như tố,
dư âm niểu niểu bất tuyệt như lũ.
Vũ u hác chi tiềm giao,
khấp cô chu chi ly phụ.
Tô tử sậu nhiên chính khâm,
nguy toạ nhi vấn khách, viết:
- Hà vi kỳ nhiên dã?
Khách viết:
- “Nguyệt minh tinh hi, ô thước nam phi”,
thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ?
Tây vọng Hạ Khẩu,
đông vọng Vũ Xương,
sơn xuyên tương mâu,
uất hồ thương thương,
thử phi Mạnh Đức chi khốn ư Chu Lang giả hồ?
Phương kỳ phá Kinh Châu,
hạ Giang Lăng,
thuận lưu nhi đông dã,
trục lô thiên lý,
tinh kỳ tế không,
sái tửu Lâm giang,
hoành sáo phú thi,
cố nhất thế chi hùng dã,
nhi kim an tại tai?
Huống ngô dữ tử,
ngư tiều ư giang chử chi thượng,
lữ ngư hà nhi hữu mi lộc,
giá nhất diệp chi thiên chu,
cử bào tôn dĩ tương chúc,
ký phù du ư thiên địa,
diểu thương hải chi nhất túc,
ai ngô sinh chi tu du,
tiện Trường Giang chi vô cùng,
hiệp phi tiên dĩ ngao du,
bão minh nguyệt nhi trường chung.
Tri bất khả hồ sậu đắc,
thác di hưởng ư bi phong.
Tô tử viết:
- Khách diệc tri phù thuỷ dữ nguyệt hồ?
Thệ giả như tư nhi vị thường vãng dã;
doanh hư giả như bỉ nhi tốt mạc tiêu trưởng dã.
Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi,
nhi thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn.
Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi,
tắc vật dữ ngã giai vô tận dã,
nhi hựu hà tiển hồ?
Thả phù thiên địa chi gian,
vật các hữu chủ,
cẩu phi ngô chi sở hữu,
tuy nhất hào nhi mạc thủ.
Duy giang thượng chi thanh phong,
dữ sơn gian chi minh nguyệt,
nhĩ đắc chi nhi vi thanh,
mục ngộ chi nhi thành sắc,
thủ chi vô cấm,
dụng chi bất kiệt,
thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã,
nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích.
Khách hỉ nhi tiếu,
tẩy trản cánh chước.
Hào hạch ký tận,
bôi bàn lang tạ,
tương dữ chẩm tạ hồ chu trung,
bất tri đông phương chi ký bạch.

Năm Nhâm tuất mùa thu tháng bảy,
Mới qua rằm trăng hãy còn hin.
Ông Tô cùng khách dời thuyền.
Chơi nơi Xích Bích gần miền Kinh Châu.
Gió phảng phất dòng sâu sóng lặng,
Cất chén mời khách hẳn vui ưa;
Ngâm nga Nguyệt xuất thi xưa,
Liền câu yểu điệu cảnh giờ khéo in.
Phương đông thoắt trăng lên chóp núi,
Trong Đẩu, Ngưu noi dõi dần dà;
Sông trong, nước rạng bao la,
Ngang giăng móc trắng, là đà trời xanh.
Bồng một chiếc thích tình hứng cảnh,
Nước mênh mang muôn khoảnh xông pha;
Phới như cỡi gió bay qua,
Nương không lóng biết đâu là đến đâu.
Phơ phơ giống đời hầu có một,
Bỏ phàm trần cởi lốt lên tiên;
Chừng khi ấy dốc rượu liền,
Vui chi xiết gõ mạn thuyền ca xoang.
Trổi một khúc: "Thuyền lan, chèo quế,
"Vỗ trong ngần ngược vẻ rạng trôi;
Đăm đăm luống dạ ai hoài,
Mỹ nhân trông tưởng cách trời một phương."
Thổi tiêu sẵn có chàng đạo sĩ,
Nương lời ca rủ rỉ hoạ theo;
Cô cô loan phượng tiếng kêu,
Dở hờn, dở khóc, dở chiều, dở than!
Tiếng thừa thãi khoan khoan réo rắt,
Rõ ràng nghe chẳng dứt như tơ;
Đầm sâu giao lặn mưa kỳ
Thuyền không gái goá sầu bi lỡ đường.
Đông Pha lão nghe tường buồn bã,
Sửu bào ngồi hỏi gã thấp cao;
Hỏi rằng: "Do dĩ làm sao,
Tiệc vui thổi khúc tiêu tao lấy gì?
Khách dẫn thi: "Tinh hy nguyệt bạch,
Mạnh Đức ngâm Xích Bích phải không?
Xanh xanh đoái khắp tây đông,
Vũ Xương, Hạ Khẩu non sông tí mù.
Ấy chẳng phải đánh đua tài trí,
Nên Tào Man khốn bị Chu Lang;
Đương sơ Kinh địa phá tan,
Giang Lăng cũng đã tro tàn dòng xuôi.
Thuyền ngàn dặm nối đuôi giữa sóng,
Cờ muôn cơn rợp bóng trên không;
Rượu thi tới bến gác dòng,
Hùng tài tót thế gẫm không ai bì.
Đến giờ há còn chi đâu có?
Huống nữa là ngư nọ tiều kia.
Đòi ta bãi bạc, cồn le,
Vui vầy tôm cá, bạn bè hươu nai.
Lênh đênh vãi thuyền chài một lá,
Chim Việt Cành Nam 18
Hê ha khuyên rượu lã vài hồ;
Dầm vàng gởi cái phù du,
Dự chi hốt thóc xô bồ biển thương.
Đời người gẫm thảm thương thấm thoắt,
Sông giang khen dài dặc không cùng;
Giày phi tiên cắp thung dung,
Ôm châu minh nguyệt muốn cùng dài lâu.
Liệu chẳng khá kíp cầu mà đặng,
Đem tiếng thừa phải nhắn gió đông".
Ông rằng: "Này khách biết không?
Mặt trăng phải tỏ, lòng sông phải dò.
Nước chảy mãi có mô trôi thẳng,
Trăng khuyết tròn trọn chẳng tiêu hao.
Hãy coi lẽ biến làm sao,
Lại coi chẳng biến thế nào thời hay.
Biến nháy mắt trời xoay đất trở,
Chẳng biến thời như rứa đeo tai;
Vật người chẳng hết còn hoài,
Có gì mà lại dong dài khong khen.
Vả lại xét trong nền Tạo hoá,
Các vật đều có gã chủ trương;
Dầu ta không có nõ màng
Mảy lông chớ đúng, muôn vàn kể chi.
Vui mặt nước những khi êm mát,
Cùng đầu non mấy lượt thanh tao.
Trăng thanh gió mát nghêu ngao,
Trăng non, gió nước dồi dào hoà hai.
Tiếng không hẹn lọt tai càng đớt
Sắc tình cờ vào mắt mà nên;
Mua vui nào phải tốn tiền
Tai dùng không chán, mắt nhìn không no.
Ấy tạo vật là kho vô tận
Ta cùng ngươi chỗ sẵn chơi chung".
Khách cười chi xiết mừng lòng,
Vội vàng rửa chén, rắp mong nghiêng bầu.
Cơm rượu thảy hồi lâu ráo xáo,
Chén bát đà lộn lạo ngửa nghiêng;
Cùng nhau chiếu gối trong thuyền,
Không dè trời đã rạng liền hướng đông.

Năm Nhâm Tuất, qua rằm tháng bảy
Ông Tô Công cùng mấy người quen
Trên sông Xích Bích con thuyền
Gió hiu hiu thổi, sóng êm êm dừng
Cuộc mời khách tay nâng chén rượu
Thơ nguyệt minh yểu điệu ngâm rền
Non đông chợt thấy sáng lên
Vừng trăng lơ lửng giữa chiền Đẩu, Ngưu
Móc ngang sông phau phau làn trắng
Nước in trời loang loáng vẻ xanh
Buông theo chiếc lá lênh đênh
Đè muôn đợt sóng mông mênh cõi ngoài
Lồng lộng tựa lưng trời cưỡi gió
Mà biết rằng dừng chỗ nơi nao
Nhởn nhơ thoát tục lên cao
Hoá ra lông cánh bay vào cõi tiên
Vui vẻ rượu nhắp liền mấy chén
Gõ nhịp thuyền cất tiếng hát ran
Hát rằng: "Chèo quế buồm lan
Đập tung ánh sáng, miết lên ngược dòng
Xa thăm thẳm trạnh lòng tưởng nhớ
Trông mỹ nhân cách trở phương trời"
Khách liền thổi sáo hoạ bài
Vo vo tiếng sáo như người khóc than
Như mến tiếc căm hờn mọi nỗi
Giọng ngân dài tựa mối tơ vương
Hang sâu quằn quại thuồng luồng
Thảm tình gái hoá thuyền suông sụt sùi
Ông Tô xốc áo ngồi chỉnh chệ
Hỏi khách sao buồn thế này ư
Khách rằng: "Trăng sáng sao thưa
Đàn chim ô thước lững lờ về nam
Câu thơ ấy ai làm thuở trước
Chẳng phải Tào Mạnh Đức đó không?
Vũ Xương, Hạ Khẩu tây đông
Nước non quanh quất mấy trùng xanh xanh
Ấy chẳng phải Tào binh thuở nọ
Bị Chu lang đánh đổ đấy không?
Kinh Châu vừa mới phá xong
Giang Lăng đạp đổ thuận sông xuôi thuyền
Sông nghìn dặm chật liền tàu chiến
Trời bốn phương che kín bóng cờ
Giữa vời lọc rượu nhởn nhơ
Quay ngang ngọn giáo ngâm thơ một bài
Anh hùng nhất trên đời lừng lẫy
Mà bây giờ nào thấy ở đâu
Huống ta vớt củi buông câu
Lứa đôi tôm cá, bạn bầu hươu nai
Thuyền một lá vui chơi chèo chống
Rượu lưng bầu êm giọng chuốc luôn
Xác vờ gửi mặc kiền khôn
Tẻo teo hạt thóc trong cồn bể xanh
Thoáng một chốc kiếp sinh là mấy
Khen con sông nước chảy khôn cùng
Cắp tiên chơi chốn non Bồng
Tay ôm chị nguyệt những mong trọn đời
Biết không thể vật nài thế được
Giọng buồn ngâm gởi trước gió bay"
Ông Tô rằng: "Khách có hay
Kìa kìa nước ấy trăng này đó không?
Nước kia vẫn xuôi dòng chảy xiết
Mà chưa từng đi hết chút nao
Trăng kia có lúc đầy hao
Mà ta chưa thấy khi nào bớt thêm
Cứ lúc biến mà xem trời đất
Thì chẳng qua chớp mắt mà thôi
Cứ khi không biến mà coi
Thì ai ai cũng lâu dài như nhau
Và thử ngẫm trong bầu vũ trụ
Có vật gì không chủ đâu mà
Vật gì chẳng phải của ta
Dẫu từ một mảy, chớ hoà nhúng tay
Chỉ trên nước hây hây gió thổi
Với sườn non ròi rọi trăng treo
Tai nghe văng vẳng tiếng reo
Mắt trông thấp thoáng có nhiều vẻ tươi
Mặc sức lấy nào ai dám giữ
Tha hồ tiêu vẫn cứ chứa chan
Của Trời kho đụn vô vàn
Mà đôi ta hãy chơi tràn là vui
Khách mừng rỡ miệng cười tay rót
Nhắm cạn rồi mâm bát ngổn ngang
Kề lưng dựa gối trong khoang
Quá say nào biết đã tang tảng ngày.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.