Anh-tông cùng với Huệ-võ-vương Trần quốc Chân 惠 武 王 陳 國 瑱, Nhân-huệ-vương Trần khánh Dư phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm-thành, bắt được Chế Chí đem về An-nam và phong cho người em là Chế-đà-a Bà làm vua Chiêm-thành.
Chế Chí về An-nam được phong là Hiệu-thuận-vương, nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở huyện Gia-lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành ra có điều thù-oán mãi.
Năm mậu-thân (1308) Nhân-tông Thượng-hoàng mất ở chùa Yên-tử-sơn. Năm giáp-dần (1314) Anh-tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh 奣, rồi về làm Thái-thượng-hoàng ở phủ Thiên-trường đến năm canh-thân (1320) thì mất.
Anh-tông trị-vì được 21 năm, nhường ngôi được 6 năm, thọ 54 tuổi.
II. TRẦN MINH-TÔNG (1314-1329)
Niên-hiệu: Đại-khánh 大 慶 (1314-1323)
Khai-thái 開 泰 (1324-1329)
Năm giáp-dần (1314) Thái-tử Mạnh lên ngôi làm vua, tức là vua Minh-tông 明 宗.
Thời bấy giờ làm quan tại triều có Đoàn nhữ Hài 段 汝 諧, Phạm ngũ Lão 范 五 老, Trương hán Siêu 張 漢 超, Mạc đĩnh Chi 莫 挺 之, Nguyễn trung Ngạn 阮 忠 彥, Chu văn An 朱 文 安 v.v... đều là những người có tài-cán trí-lự cả.
Trong nước được yên-trị; giao-hiếu với nước Tàu thì tuy rằng có lôi-thôi về đường phân địa-giới, nhưng đại khái vẫn được hòa-hảo. Duy chỉ có nước Chiêm-thành tự khi Chế Chí chết rồi, thì người Chiêm cứ hay sang quấy-nhiễu ở phía nam, cho nên phải dùng đến can-qua. Năm mậu-ngọ (1318), Minh-tông sai Huệ-võ-vương Trần quốc Chân và tướng-quân Phạm ngũ Lão đem binh đi đánh, vua Chiêm là Chế Năng phải bỏ thành mà chạy.
Còn những việc chính-trị trong nước, thì năm ất-mão (1315) lập lệ cấm người trong họ không được đi thưa kiện nhau; năm bính-thìn (1316) duyệt định văn võ quan cấp;