Bước tới nội dung

Truyền kỳ mạn lục/13

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHUYỆN CÁI CHÙA HOANG Ở HUYỆN ĐÔNG-TRÀO


Đời nhà Trần, ’ tục tin thần-quỷ, thần-từ phật-tự chẳng đâu là không có, như chùa Hoàng-giang, chùa Đồng-cổ, chùa An-sinh, chùa An-tử, chùa Phổ-minh, quán Ngọc-thanh, dựng lên nhan-nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều hầu hằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông-trào, sự sùng-thượng lại càng quá lắm, chùa-chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu, bao ngoài bằng rào lũy, tô trong bằng vàng son; phàm người đau-ốm, chỉ tin theo ở sự hư-vô; gặp các tuần-tiết thì đàn-tràng cúng-vái rất là rộn-rịp. Thần phật xem chừng cũng ứng-giáng, nên cầu gì được nấy, linh-ứng lạ thường. Bởi vậy người dân càng kính tin, không dám ngạo-mạn. Đời vua Giản-Định nhà Trần, binh-lửa luôn năm, nhiều nơi bị đốt, số chùa-chiền còn lại, mười không được một, mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngả xiêu nghiêng, tiêu-điều đứng rũ ở giữa áng cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô lui, dân trở về phục-nghiệp. Có viên quan là Văn Tư-Lập đến tri-huyện ấy, thấy những cảnh hoang-tàn đổ nát, bèn róng-rả dân đinh các xã, đánh tranh kên nứa mà sửa-chữa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy được một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm-cắp, từ gà lợn ngỗng ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì có thể ăn được đều bị mất hết. Tư-Lập than rằng:

« Ta ở vào địa-vị một viên ấp-tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế-phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta ».

Song Tư-Lập cho là những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi là đáng lo-ngại lắm, nên chỉ sức cho các thôn dân, đêm đêm phải canh phòng cẩn-mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng-sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hũ rượu của người ta, vào buồng để ghẹo vợ con của người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư-Lập cười mà nói:

— Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kỳ thực đó là loài ma-quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy-rối bấy nay, đều tự vật này cả.

Đó rồi đi mời khắp các thầy phù-thủy cao tay, xin bùa yểm-trấn. Song càng bùa-bèn trừ yểm, sự quấy-quắc vẫn tệ hơn trước. Tư-Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:

— Các người khi trước vẫn thờ Phật rất là kính-cẩn, lâu nay vì việc binh-hỏa mà đèn-hương lễ bái không chăm, cho nên yêu-nghiệt hoành-hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền-nghi, may có thể giúp-ích cho mình.

Mọi người bèn đi đốt hương lễ-bái ở chùa-chiền, khấn rằng:

« Lũ chúng-sinh này kính-thờ Trời Phật, quy-y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật-pháp. Nay ma-quỷ nổi lên, quấy-nhiễu dân-chúng, họa hại cả đến loài lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ-bi quá lắm ư? Cúi xin mở lượng xót-thương, ra uy trừng phạt,, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, hết thảy chúng-sinh, đều được đội ơn nhiều lắm. Song loạn-lạc vừa yên, sinh-kế chưa khôi-phục được, tấc gỗ mảnh ngói khó lòng xoay-xở vào đây. Đợi khi làm ăn giàu-có sẽ lại xin sửa lại chùa-chiền, đền công-đức ấy ».

Đêm hôm ấy, trộm cắp hoành-hành lại vẫn dữ hơn trước. Tư-Lập chẳng biết làm sao được; nghe Vương tiên-sinh ở huyện Kim-thành là người giỏi bói Dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương tiên-sinh bói rồi nói rằng:

Cưỡi trên ngựa tốt,
Mặc áo vải săn,
Túi da tên thiếc,
Đích thị người thần.

Lại dặn rằng:

— Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng ngày mai nên do phía tả cửa huyện đi về phương nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ-chối cũng đừng nghe.

Hôm sau, Tư-Lập cùng các phụ lão theo đúng lời của Vương tiên-sinh để trông-ngóng xem, những kẻ đi người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán-nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi đi ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc-nhiên hỏi; mọi người cùng kể rõ bản-ý của mình. Người ấy cười mà rằng:

— Các ông sao mà quá tin bói toán đến như thế! Tôi từ nhỏ làm nghề săn-bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi An-phụ có nhiều giống nai béo, thỏ tốt, nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắn ma vô hình là công việc thế nào.

Tư-Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp-đàn cao tay, vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa-bèn, sợ bị mang lụy vào thân, nên mới vào nhởn-nhơ trong chốn núi khe, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kỳ được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng theo lời. Tư-Lập mời người ấy về huyện, để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm đều rất sang-trọng, săn-sóc kính-cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng rằng:

« Họ tiếp đãi kính-cẩn đối với ta thế này, chỉ vì cho là ta có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về sự đó, thế mà đi hưởng sự cung-cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì sẽ có ngày phải xấu-hổ ».

Hôm ấy ước chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón bước ra khỏi huyện lỵ. Khi đến phía Tây cái cầu ván, bấy giờ trời tối lờ-mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có mấy người hình-thể to lớn, hớn-hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẩn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ sẽ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuống một cái ao, rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:

— Những con cá con ăn ngon lắm, nên ăn dè dặt mới thấy thú; há chẳng hơn những thức hương-hoa nhạt-nhẽo họ thường dâng-cúng chúng mình ư? Đáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.

Một người cười mà nói:

— Chúng mình thật to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa-dối; ai lại đem cái oản một vài lẻ gạo để lấp cái bụng nặng nghìn cân mà đi giữ cửa cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.

Một người nói:

— Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn, không phải chay tịnh như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình nghèo-kiết, chúng nó chả có gì để cúng-vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đã trải một thời-gian lâu lắm, chẳng khác chi đức Khổng-tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay trời rét nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được; chi bằng lên quách vườn mía mà bắt-chước Hổ-đầu tướng-quân[1] ngày xưa.

Đoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đương ngồi núp một chỗ, liền giương cung đáp tên, thình-lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm-ớ mấy tiếng, rồi ồ chạy cả, chừng độ mấy chục bước, đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn thấy có tiếng mắng nhau:

— Đã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi. Không nghe lời ta, bây giờ mới biết.

Người kia kêu réo rầm-rĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc, chia nhau mỗi người đi đuổi mỗi ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu đi về phía tây. Chừng hơn nửa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ-pháp xiêu-giẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu le lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hẩy đổ hai pho tượng. Trong lúc ấy còn nghe thấy có tiếng nói rằng:

— Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bày ra mưu này là tự lão Thủy-thần kia. Hắn là chủ mưu mà được khỏi nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn-nàn lắm.

Đó rồi họ sai người đến miếu Thủy-thần, thấy pho thần-tượng đắp bằng đất bỗng biến nét mặt, mặt tái đi như chàm đổ, mấy cái vảy cá hãy còn dính lèm-nhèm trên mép, bèn lại phá-hủy luôn cả pho tượng ấy.

Quan huyện Văn Tư-Lập dốc hết hòm rương để trả ơn người kia, người kia chở nặng mà về. Từ đấy yêu-tà tuyệt tích, không còn thấy tăm-bóng đâu nữa.

Lời bình

Than ôi! Cái thuyết nhà Phật thật là vô-ích mà có hại quá lắm. Nghe lời nói-năng thì từ-bi quảng-đại, tìm sự ứng-báo thì bắt gió mơ-hồ. Nhân dân kính tin, đến nỗi có người phá sản để cúng cho nhà chùa. Nay xem cái dư-nghiệt ở trong một ngôi chùa nát mà còn gớm-ghê như thế, huống ngày thường cúng-vái sầm-uất, phỏng còn tai-hại đến đâu. Song những anh-quân hiền-tướng, thường muốn trừ bỏ mà vẫn không thể được. Bởi các đấng quân-tử cao-minh, thường có nhiều người giúp rập, chẳng hạn như Tô học-sĩ[2] đời Tống, Lương Trạng-nguyên[3] đời Lê. Ước sao có hàng trăm ông Hàn Xương-Lê[4] ra đời, xúm lại mà đánh, đốt hết sách và chiếm hết nhà mới có thể được.

   




Chú thích

  1. Đời vua Tấn An-đế, Cố Khải-Chi làm chức Hổ-đầu tướng-quân, người ta gọi là Cố Hổ-đầu. Mỗi khi Cố ăn mía, ăn từ trên ngọn xuống đến gốc. Người ta hỏi thì nói: ăn như thế thì mỗi lúc mỗi đi tới chốn thú-vị.
  2. Ông Tô Đông-Pha thường chơi thân với sư.
  3. Ông Lương Thế-Vinh rất sùng đạo Phật.
  4. Ông Hàn-Dũ đời Đường rất ghét đạo Phật, có bài biểu Phật-cốt công-kích đạo Phật dữ lắm.