Truyền kỳ mạn lục/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHUYỆN TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN


TRONG năm Quang-thái đời nhà Trần, người ở Hóa-châu tên là Từ Thức, vì có phụ-ấm được bổ làm Tri-huyện Tiên-du. Bên cạnh huyện có một tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem đông rộn-rịp, thành một đám hội xem hoa tưng-bừng lắm. Tháng 2 Bính-tý (niên hiệu Quang-thái thứ 9 (1396) đời nhà Trần), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 16, phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội ấy, thấy vậy động mối lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng-phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền-đức.

Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ sách bỏ ùn cả lại, thường bị quan trên quở-trách rằng:

— Thân-phụ thầy làm đến đại-thần mà thầy không làm nổi một chức tri-huyện hay sao!

Từ than rằng:

— Ta không thể vì số lương 5 đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy.

Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống-sơn, nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường sai một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên-minh hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý-hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kỳ như núi Chích-trơ, động Lục-vân, sông Lãi, cửa Nga, không đâu không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ dậy sớm, trông ra bể Thần-phù ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc, đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh-ngạc bảo lái thuyền rằng:

— Ta đã từng lênh-đênh trong áng giang-hồ, các thắng cảnh miền đông-nam, không còn chỗ nào sót mà không đi đến. Nay không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, vì trước kia vốn không từng có; ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đấy chăng?

Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, nếu khống có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được. Nhân đề một bài thơ luật rằng:

千 章 碧 樹 掛 朝 暾
Thiên chương bích thụ quải triêu đôn
花 草 迎 人 入 洞 門
Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn
遶 澗 已 無 僧 採 藥
Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược
沿 流 剩 有 客 尋 源
Diên lưu thặng hữu khách tầm nguyên
旅 遊 滋 味 琴 三 弄
Lữ du tư vị cầm tam lộng
釣 艇 生 涯 酒 一 樽
Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn

擬 向 武 陵 漁 子 問
Nghĩ hướng Võ-lăng ngư tử vấn
前 來 遠 近 種 桃 村
Tiền lai viễn cận chủng đào thôn,

Dịch:

Triêu-dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Võ chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào chỉ hộ lối loanh-quanh.

Đề xong, trông ngắm thẫn-thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Vén áo đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại, tối-tăm mù-mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, lấy tay sờ-soạng lối rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, quằn-quèo như cái ruột dê vậy. Đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên. Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng-sủa, chung quanh toàn là những lầu đài nguy-nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa. Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền-đài thờ-phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi núi Sậu nguồn Đào[1] chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng:

— Lang-quân nhà ta đã đến!

Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:

— Phu-nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi.

Sinh đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung-điện bằng bạc đứng sững, có những tấm biển đề: « Điện Quỳnh-hư », « Gác Dao-quang ». Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất-bảo; bên cạnh đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời sinh lên ngồi và bảo rằng:

— Tính hiếu-kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui-sướng trong một chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ, chàng có còn nhớ gì không?

Sinh thưa rằng:

— Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống-sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phóng lãng giang-hồ thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có Tử-phủ Thanh-đô! Lần mò lên được tới đây, chẳng khác như mình đã mọc cánh mà bay lên đến cõi tiên vậy. Song lòng trần mờ tối, chưa biết tiền-đồ ra làm sao. Dám xin chỉ bảo rõ-ràng cho chúng tôi được hiểu.

Bà tiên cười mà rằng:

— Chàng biết sao được. Đây là núi Phù-lai, một động tiên thứ sáu trong 36 động, bồng-bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám-bíu, như hai núi La-phù tan hợp theo với gió mưa, như các ngọn Bồng-lai, co duỗi theo với sóng giợn, mà tôi tức là địa-tiên ở Nam-nhạc là Ngụy phu-nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy-khốn cho người, nên mới dám làm phiền mời chàng đến đây.

Bà tiên nhân đưa mắt cho con hầu để bảo gọi một cô tiên ra, sinh liếc nhìn trộm, chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:

— Đứa con tôi đây tên là Giáng-hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết-duyên để báo đền ơn trước.

Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vằn rồng, để hai người làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ đàng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt ở từng thượng trên gác Dao-quang, buông rèm câu[2] ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu-ly mà để không. Quần tiên vái chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim-tiên đã đến, mọi người đều bước xuống lạy đón chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã-não, đĩa bằng ngọc-thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ; lại có những thứ rượu kim-tương ngọc-lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được cái của quý như vậy. Người áo gấm trắng nói:

— Chúng tôi chơi ở chốn này mới 8 vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay chàng từ xa tới đây, không vì tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng cũng không phụ, đừng nên cho chuyện thần tiên là câu chuyện hoang-đường.

Rồi có những người trẻ nhỏ, chia ra từng lớp mà múa điệu lăng-ba. Đoạn, phu-nhân mời tiệc. Giáng-hương rót rượu. Người bận xiêm lụa nói đùa rằng:

— Nương tử hôm nay màu da mỡ đọng, chứ không khô gầy như trước nữa. Người ta bảo ngọc-nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?

Quần tiên đều cười, duy người mặc áo xanh buồn rầu không vui mà nói rằng:

— Mối duyên của cô em đây, thật cũng là tốt đẹp. Song nghĩ cái giá băng-ngọc ở bên mây, mà đi kết mối tóc tơ ở cõi thế, vạn nhất tiếng tăm vỡ lở, thiên hạ chê cười, quần tiên chúng ta, e không khỏi mang tiếng lây được.

Bà Kim-tiên nói:

— Ta ở trong chốn lâu thành trên trời, chầu hầu bên cạnh đức Thượng-đế, mênh-mang trần hải, chưa từng đặt bước xuống bao giờ. Thế mà những kẻ hiếu sự họ còn bịa ra, nào bảo Dao-trì hội kiến ở đời Chu[3], Thanh-điểu truyền tin ở đời Hán[4] ta còn thế, huống chi là lũ các nàng ư? Song tân-lang ngồi đây, ta không nên bàn phiếm những câu chuyện khác.

Bà phu-nhân nói:

— Tôi nghe tiên khá gặp chứ khôn tìm, đạo không tu mà tự đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm lạ, đời nào mà không có: như đền Bạc-hậu[5], như quán Cao-đường[6], như thần Lạc-phố lướt sóng[7], như nàng Giang-phi cổi ngọc[8], như Lộng-Ngọc lấy Tiêu-Sử[9], như Thái-Loan gặp Văn Tiêu[10], như Lan-Hương gặp Trương-Thạc[11]. Bao nhiêu những chuyện cũ còn sờ-sờ đó; nếu thế này mà bị chê cười thì đã có những người trước ấy họ chịu đỡ tiếng cười cho mình.

Mọi người cùng phá lên cười rất vui-vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các khách-khứa đều giải-tán cả. Sinh đùa bảo Giáng-hương rằng:

— Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu cả. Cho nên ả Chức-nữ lấy chàng Ngưu-lang, nàng Thượng-nguyên tìm chàng Phong-trắc[12], Tăng-Nhụ có bài ký Chu Tần[13], Quần-Ngọc có bài thơ Hoàng-lăng[14], cảnh khác nhưng tình cũng giống nhau, nghìn xưa vẫn như thế cả. Nay quần tiên ai về chỗ nấy, sống trong cảnh quạnh-quẽ vô liêu, đó là vì lòng vật-dục không nẩy sinh, hay là cũng có nhưng phải gượng đè nén?

Nàng đổi sắc mặt nói:

— Mấy người ấy là những cái khí huyền-nguyên, những cái tính chân-nhất, thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở phủ thanh-hư, chơi thì chơi miền sung-mạc, không cần gạn mà lòng tự trong, không cần lấp mà dục vẫn lặng. Không như thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi đục; chàng đừng nên nhân một mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế.

Từ nói:

— Nếu thế thì em còn thua các tiên kia xa lắm.

Vợ chồng cùng vỗ tay cả cười.

Chỗ Giáng-Hương có bức bình-phong trắng, Từ thường đề thơ lên trên rằng:

I

眼 底 煙 霞 脚 底 雲
Nhỡn để yên hà cước để vân
清 光 洒 洒 逼 三 神
Thanh quang sái sái bức Tam Thần.
松 花 半 老 香 風 動
Tùng hoa bán lão hương phong động,
媒 引 滄 浪 釣 艇 人
Môi dẫn Thương-lương điếu đĩnh nhân.

Dịch:

Khói rợp mây che khắp bốn trời,
Non Thần trong sáng đó là nơi
Hoa thông theo gió đưa hương ngát,
Dắt dẫn thuyền câu khách một người.

II

秋 風 一 夜 月 漫 山
Thu phong nhất dạ nguyệt man san,
廉 捲 黄 花 入 倚 欄
Liêm quyển hoàng hoa nhập ỷ lan.
酒 力 困 人 詩 思 苦
Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ,
吟 毫 醉 閣 碧 琅 玕
Ngân hào túy các bích lang can.

Dịch:

Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,
Rèm cuộn, hoa vàng lọt cửa son
Rượu mệt-mê say người nặng trĩu,
Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.

III

寶 鴨 凝 寒 換 宿 香
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương,
別 裁 新 譜 理 霓 裳
Biệt tài tân phổ lý nghê-thường.
辭 成 不 敢 高 聲 道
Từ thành bất cảm cao thanh đạo,
驚 起 陰 來 風 雨 長
Kinh khởi âm lai phong vũ trường.

Dịch:

Đốt lại lò trầm nhóm lại hương
Đắn đo đổi mới khúc nghê thường

Bài thành không dám cất cao tiếng,
E gió mưa về ầm một phương.

IV

紅 霞 對 起 赤 城 椒
Hồng-hà đối khởi Xích-thành tiêu
插 漢 宮 牆 鎖 寂 寥
Sáp hán cung tường tỏa tịch liêu.
星 斗 擾 欄 天 一 握
Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác,
夜 深 秦 女 學 吹 簫
Dạ thâm Tần-nữ học xuy tiêu.

Dịch:

Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,
Cung tường cao vút vắng teo teo,
Trăng sao dường mọc quanh bên mái,
Tần-nữ đêm dài học thổi tiêu.

V

滄 茫 雲 外 短 長 洲
Thương mang vân ngoại đoản trường châu
閩 桂 乾 坤 日 夜 浮
Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù
一 鳥 暮 春 飛 不 盡
Nhất điểu mộ xuân phi bất tận
連 空 淡 掃 碧 悠 悠
Liên không đạm tảo bích du du.

Dịch:

Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu,
Mân, Quế phương trời ngút tận đâu.
Xuân muộn con chim bay lạc lõng,
Vòm không quang sạch biếc làu làu.

VI

却 寒 簾 放 月 重 重
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng,
怯 對 衰 顏 把 鏡 慵
Khiếp đối suy nhan bả kính dung.
隔 竹 喚 來 僊 枕 夢
Cách trúc hoán lai tiên trẩm mộng,
五 更 無 柰 遠 山 鐘
Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.

Dịch:

Rèm buông cản lạnh nguyệt linh-lung,
Gương võ-vàng soi luống thẹn-thùng.
Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,
Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.

VII

浮 浮 瑞 靄 遶 金 閨
Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê
方 丈 携 南 弱 水 西
Phương-trượng huề nam Nhược thủy-tê
唱 罷 鼉 更 天
Xướng bãi đà canh thiên dục thự,
鄉 心 何 處 一 聲 鷄
Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.

Dịch:

Khí lành quanh-quất phủ buồng xuân,
Phương-trượng non xa, Nhược-thủy gần
Dứt tiếng canh đà[15] trời sắp sáng,
Lòng quê theo dõi áng mây tần.

VIII

烟 嵐 如 髻 柳 如 鈿
Yên lam như kế liễu như điền
瑣 闥 晴 窺 海 泊 船
Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền,
羽 客 去 時 無 處 覓
Vũ khách khứ thời vô xứ mịch,
步 虛 聲 外 碧 連 天
Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.

Dịch:

Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,
Thuyền bể xa trông thấp-thoáng ngoài
Đạo-sĩ một đi tìm khó thấy,
Trong không tản-mác tiếng ngân dài.

IX

四 面 波 濤 一 髻 山
Tứ diện ba đào nhất kế sơn
夜 來 何 處 夢 鄉 關
Dạ lai hà xứ mộng hương quan
茫 茫 塵 界 回 頭 遠
Mang mang trần giới hồi đầu viễn,
身 在 紅 雲 碧 水 間
Thân tại hồng vân bích thủy gian.

Dịch:

Sóng nước bao quanh núi một vùng,
Mộng về quê cũ lối không thông,
Mây vàng nước biếc thân nương đậu,
Trần giới xa coi ngút mịt-mùng.

X

桃 花 繞 㵎 出 天 台
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên-thai

委 地 殘 紅 半 綠 苔
Ủy địa tàn hồng bán lục đài
却 笑 劉 郎 輕 出 洞
Khước tiếu Lưu-lang khinh xuất động,
臨 風 幾 把 玉 書 開
Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.

Dịch:

Mặt suối hoa đào lặng-lẽ trôi,
Rêu trùm sắc thắm uổng pha-phôi.
Lưu-lang biệt động sao khờ mấy,
Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi.

Như Từ từ khi bỏ nhà đi, thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, trông thấy trăng dòm cửa sổ, sóng tóe đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng-khuâng, quấy-nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương nam, Từ trỏ bảo Giáng-Hương rằng:

— Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.

Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:

— Tôi bước khách bơ-vơ, lòng quê bịn-rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo-hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?

Giáng-Hương bùi-ngùi không nỡ dứt. Từ-lang nói:

— Tôi xin hẹn trong một thời-kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chỗ làng mây bến nước.

Giáng-Hương khóc mà nói:

— Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê-hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn-ngủn, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.

Nàng nhân thưa với phu-nhân, phu-nhân nói:

— Không ngờ chàng lại thắc-mắc vì mối lòng trần như vậy.

Nhân cho một cỗ xe cẩm-vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:

— Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình cũ-kỹ.

Nhân tràn nước mắt mà chia biệt.

Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân dân, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:

- Thủa bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất, đến nay đã hơn 60 năm, nay đã là năm thứ 5 (1458) niên-hiệu Diên-ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi.

Chàng bấy giờ mới hậm-hực bùi-ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay đi mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: « Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể, dịp khác còn đâu! » mới biết là Giáng-Hương đã nói trước với mình những lời ly-biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành-sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.


Lời bình

Than ôi, nói chuyện quái sợ loạn chuyện thường, cho nên thánh-hiền không nói. Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên, cho là thực không ư? Chưa hẳn là không; cho là thực có ư? Chưa hẳn là có. Có không lờ mờ, câu chuyện tựa hồ quái đản. Nhưng có âm đức thì tất có dương báo, cũng là lẽ thường. Những bậc quân-tử sau này khi để mắt đến sẽ liệu mà thêm bớt, bỏ chỗ quái mà để chỗ thường thì phỏng có gì là hại.

   




Chú thích

  1. Xưa Tây-vực có núi Thiết-linh, hình như con chim Sậu, nên gọi tên như thế. Khi xưa Phật thường ở đấy. Nguồn Đào là chuyện người đánh cá đời Tấn tên là Hoàng Đạo-Chân, đi ngược dòng suối lạc vào một cái động trồng đầy hoa đào.
  2. Câu tức là cái móc.
  3. Sách Loại-tụ nói vua Chu Mục-Vương ham thích thần tiên, rồi gặp bà Vương-mẫu ở Dao-trì.
  4. Lời chua ở sách Đường-thi, nói vua Hán Vũ-Đế ngồi ở điện Thừa-hoa, chợt có hai con chim xanh từ phương tây bay lại, đậu ở trước điện. Vua hỏi Đông Phương Sóc, Sóc nói: « Đó là bà Vương-mẫu sắp đến chơi đấy ». Một lát, quả nhiên bà Vương-mẫu đến, có hai người thị-nữ áo xanh tức là hai con chim xanh lúc trước.
  5. Chuyện Ngưu Tăng-Nhụ đời Đường gặp các nàng tiên ở đền Bạc thái-hậu đã chua ở « chuyện người nghĩa phụ Khoái-châu ».
  6. Sở-vương chơi ở quán Cao-đường, gặp một nàng thần-nữ, cùng chung chăn-gối.
  7. Thần-nữ ở Lạc-Phố tên là Bật Phi, con gái vua Phục-Hy. Sách Quần-ngọc có chép chuyện Trần Tư Vương gặp thần-nữ ở Lạc-phố.
  8. Hai nàng tiên Giang-phi chơi ở bến sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc minh-châu mà tặng cho. Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc không còn nữa mà những nàng kia cũng biến mất.
  9. Chàng Tiêu-Sử giỏi thổi ống tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là Lộng-Ngọc gả cho. Chàng dạy nàng thổi tiêu, chim phượng-hoàng nghe tiếng bay đến. Sau vợ chồng cùng cưỡi phượng mà bay lên trời.
  10. Chàng Văn-Tiêu gặp nàng tiên Thái-loan ở núi Tây tại đất Chung-lăng, hai người lấy nhau.
  11. Ngọc-nữ Đỗ Lan Hương lấy Trương-Thạc. Sau nàng về trên trời, Trương-Thạc rất thương nhớ.
  12. Phong-Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng-nguyên phu-nhân đêm đến ve-vãn (xuất ở sách Thiên-hạ dị-kỷ).
  13. Chuyện Ngưu Tăng Nhụ đã chua ở trên.
  14. Lý Quần Ngọc qua miếu Nhị-phi ở Sầm-dương có đề một bài thơ, câu đầu là: « Hoàng lăng miếu tiền xuân dĩ không ». Chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là hai nàng Nga-Hoàng, Nữ-Anh, hẹn sau hai năm sẽ cùng Lý gặp-gỡ.
  15. Đà là tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được, tiếng kêu rất lớn, mỗi lần kêu rất đúng với mỗi trống canh.