Văn tế Trương Định

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Văn tế Trương Định  (1864) 
của Nguyễn Đình Chiểu

Hỡi ơi!
Giặc cỏ bò lan;
Tướng-quân mắc hại.

Ngọn khói Tây-bang[1] đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn-lâm[2];
Bóng sao Võ-khúc[3] về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh-trại.

Nhớ tướng quân xưa:
Gặp thuở bình cư[4];
Làm người chí đại[5].

Từ thuở ở hàng viên lữ[6], pháp-binh trăm trận đã làu;
Đến khi ra quản đồn-điền, võ-nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên[7];
Lúc cuộc tan, về huyện Tân-hòa, đắp lũy đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái[8].

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng-hòa những tưởng rằng xong[9];
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần-tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên-tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền[10];
Theo bụng dân phải chịu tướng-quân-phù, gánh-vác một vai khổn ngoại[11].

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa[12], sĩ-phu[13] lắm kẻ xui theo;
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật-lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham-biện, thương-biện, giúp các cơ bàn-bạc nhung-công;
Võ thì dùng tổng-binh, đốc-binh, coi các đạo sửa-sang khí-giái.

Khá thương ôi!
Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ-ràng;
An bạc mưu binh, nào từng trễ-nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố[14], chói sắc giữa trào;
Ai muốn đem gươm báu Can-tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy:
Sức giặc Lang-sa;
Nhiều phương quỷ-quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma-ní, ma-tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;
Huống chi cô lũy ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà:
Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch-lá, Gò-công mấy trận, người thấy đã kinh;
Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;
Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng lũy sắt các nơi;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi!
Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn-nạn, cây thương phá lỗ[15] chưa lìa;
Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải[16].

Chạnh lòng tướng-sĩ, thương quan-tướng, nhắc quan-tướng, chiu-chít như gà;
Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi!
Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư[17]?
Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng-soái.

Nào phải kẻ tán sư[18] đầu giặc, mà để nhục miễu-đường;
Nào phải người kiểu chiếu[19] đánh phiên, mà gây thù biên tái[20].

Hoặc là chuộng một lời hòa-nghị, giận Nam-phiên phải bắt Nhạc Phi về;
Hoặc là do trăm họ hoành la[21], hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia[22] khăn xé, nhìn giang-san ba tỉnh luống thêm buồn;
Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! cõi cô-thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;
Thôi đã đành! bóng tà-dương gấm-ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo-hóa ghét nhau chi?
Nhắc tới đoạn nào, anh-hùng rơi lụy mãi.

Cuộc trung-nghĩa hai năm làm đại-tướng, nhọc-nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi[23];
Cõi Yên-hà một chức chịu lãnh-binh, lây-lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!.

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn-loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc-nôi;
Than là than bờ-cõi lúc qua phân[24], ngày tháng trông vua, ngơ-ngẩn một phương tớ dại.

Tướng-quân còn đó, các nơi đạo-tặc thảy kiêng dè;
Tướng-quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích-lý, màn hùm[25] che mặt rằng xuê;
Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi!
Trời Bến-nghé mây mưa sùi-sụt, thương đấng anh-hùng gặp lúc gian-truân;
Đất Gò-công cây cỏ ủ-ê, cám niềm thần-tử hết lòng trung-ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;
Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.

   




Chú thích

  1. Ý nói chiến-hạm của quân Pháp chiếm đóng.
  2. Cõi biên-thùy, nghĩa-quân còn hăm-hở náu mình nơi rừng rú, kháng-chiến.
  3. Vì sao bản-mệnh của viên tướng tài.
  4. Lúc ở yên.
  5. Nuôi chí lớn.
  6. Chỗ quân-sĩ đóng.
  7. Tranh tiên: Giành xông-xáo trước.
  8. Địch khái: Chống kẻ căm giận đối với dân nước mình.
  9. Sứ-bộ Phan Thanh Giản trở về, nhưng việc giảng-hòa chưa kết-quả.
  10. Mã tiền: trước ngựa.
  11. Khổn ngoại: Ngoài cửa buồn. Phần việc ngoài biên của võ-tướng.
  12. Phấn nghĩa: Dấy lòng nghĩa-khí.
  13. Sĩ-phu: Bậc người có giá-trị.
  14. Lộ bố: Tờ không niêm phong để cho mọi người biết (báo thắng trận).
  15. Lỗ: Đứa giặc. Giặc-giã.
  16. Quải: Treo.
  17. Xa thư: Xe và sách. Do câu sách Trung-Dung: "Kim thiên-hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn". Nghĩa: Nay ở gầm trời, xe chung đường, sách chung chữ. Ý nói thiên hạ thông đồng.
  18. Tán sư: Giải tán binh-đội.
  19. Kiểu chiếu: Làm tờ chiếu giả.
  20. Biên tái: Cõi biên-thùy.
  21. Hoành la: Mắc lưới. Lâm cảnh khổ.
  22. Do chữ qua phân: Quả dưa bổ ra. Nghĩa bóng là chia-cắt đất-cát.
  23. Thị phi: Phải và trái.
  24. Qua phân: Quả dưa bổ ra. Ý nói đất nước bị chia xẻ.
  25. Do chữ hổ tướng: Chỗ các viên tướng hội họp.