Bước tới nội dung

Vịnh người chăn trâu

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Vịnh người chăn trâu
của Lê Thánh Tông

Đầu ngàn, êu ểu[1] cỏ xanh om,
Thả thả, chăn chăn, ít lại nom.
Mũi nghé lui chân đứng nhảy[2],
U trâu vịn cật ngồi khom.
Vang địch trúc[3] lao xao hỏi,
Mảng ca sừng[4] ngấp nghé nhòm.
...(Có) thuở về hòa[5] khi hái củi,
Chẳng ngờ ác[6] đã mái kia mom.

II

[sửa]

Nẻo ra[7] thì có phu đồng bộc[8],
Song viết[9] ai bằng song viết mục[10] ?
Nhật nguyệt đôi vầng tấm nón nan,
Giang san ngàn dặm một rò trúc[11],
Sách xưa Hề[12], Thích[13] thấy còn truyền,
Đời thịnh Thuấn, Nghiêu mừng ấy phúc,
Lục lõi[14] tự nhiên sinh sản nhiều,
Thái bình tay vỗ ca đòi khúc.

   




Chú thích

  1. Êu ểu: Mơn mởn
  2. Các chú mục đồng thường có kiểu nhảy lên mũi trâu để trèo lên lưng
  3. Địch trúc: Sáo tre
  4. Mảng ca sừng: Gõ sừng hát
  5. Hòa: Và
  6. Ác: Mặt trời
  7. Nẻo ra: Ra ngoài
  8. Phu đồng bộc: Trẻ chăn trâu thuê
  9. Song viết: Nghề nghiệp
  10. Mục: Chăn
  11. Cây roi tre
  12. Hề: Bá Lý Hề, người thời Xuân Thu, trước làm quan ở nước Ngu, biết nước Ngu sắp diệt vong, bèn bỏ sang nước Tần, đi ở chăn trâu. Mục công nước Tần biết Hề là người giỏi, dùng làm tướng, giúp Tần Mục công làm nên nghiệp bá
  13. Thích: Ninh Thích: Người nước Vệ, thời Xuân thu, vì nhà nghèo phải sang nước Tề ở chăn trâu cho người khác. Một hôm, Ninh Thích gõ sừng trâu để hát, Tề Hoàn công đi qua, nghe tiếng hát lấy làm cảm động, liền dùng làm thượng khanh
  14. Lục lõi: Từ cổ, chưa rõ nghĩa, chúng tôi suy đoán là: dần dà