Bước tới nội dung

Đốt pháo

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Đốt pháo  (1907) 
của Nguyễn Văn Vĩnh

Bài báo này được viết trong "Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo", số 824 ra ngày 31 tháng 10 năm 1907, viết với bút danh T-N-T.

Việc này đáng nhẽ để đến tháng chạp hãi bàn thì phải, nhưng bây giờ là mùa cưới, pháo cũng đã sinh ra nhiều sự nên nói để anh em đồng-bào nhớ lấy, đến khi Bản-báo có luận đến, thì những sự thực cũng làm cho nặng thêm nhời chúng tôi lên một ít nữa.

Hôm nọ ở phố hàng Điếu, có đám cưới. Lúc rước dâu về đến cửa, nhà giai sắm sửa đón hai họ vào thực là vui vẻ; giữa lối đi thì cũng giữ lệ đốt lò than để cô dâu bước qua cho sạch viá-van; mẹ chồng cũng theo thói trốn sang láng-giềng để dâu về được hưởng quyền vu-qui một chốc cho khỏi thất-hiếu; ngoài đường thì xe xe ngựa ngựa sắp hàng; các ông các bà hai họ, ông thì áo gấm bà thì áo vóc, đây vài ông duy-tân bận áo nái Trần-văn-Phúc, đội mũ Đông-thành-xương, đi giầy vàng phố Phúc-kiến. Vài ba ông cụ già mặc áo thụng xanh, đi có lọng che cầm hương thơm Quảng-hợp-ích. Đám cưới thực ra một đám cưới duy-tân, và có ý bảo-nghiệp, duy có cái pháo vẫn còn giữ lối bắt chước các chú. Lạch-đạch trong nhà trán rồi lại treo thêm một bánh ra mái hiên cửa gọi là làm lệ để dâu vào được đi qua hỉ-khí.

Bất ngờ đương lạch-đạch tạch-đùng có một cái xe độc-mã đi qua: trên xe một vị thiếu-niên ngồi, chẳng biết ông Phán sở nào. Như người ta thấy pháo thì hãng đứng lại xa xa một quãng xong rồi hãi đi. Ông phán ta lại vội quá, vả nhân có đám các bà các cô lịch-sự, ta cũng làm ra mặt đánh xe rỏi lấy sĩ-diện chơi. Roi dây đánh đen-đét. Phải con ngựa cũng ác! Vừa tiếng pháo vừa tiếng roi, ngựa sợ lồng phách mãi lên, long mất hai cái tay xe với cái ván. Hai bên hàng-phố ai trông thấy cũng bảo: đáng kiếp, và cười ồ cả lên. Nhưng mà ông Phán ta có phải là người chịu hèn đâu, ngài đi tìm ngay một ông Tây đến, chẳng biết ngài nói với ông Tây thế nào, ông Tây đến gọi chủ nhà ra đánh một hồi, rồi cho hai người đội-xếp đến bắt đem lên bóp Hàng-dậu. Lên đó rồi ông Cẩm bắt phải đền 50$, ông chủ nhà lậy van mãi phải đền 30$ mà thôi.

Việc phải đền ấy, phải trái thế nào tôi cũng xin không luận làm chi. Ông phán ấy đi huỳnh xe mượn, cầm cương chẳng nên thân, hoặc cầm tài nhưng bánh-pháo láo thành ra gần đến nơi không tịt lại, cứ cố trí lẹt-đẹt mãi để cho ngựa lồng, thì sự ngày nào chẳng ra như thế, cũng không nên nói.

Duy có cái điều đốt pháo là thậm giã-man, thậm hay sinh phiền, thậm vô-lý, thì anh em ta nên bỏ dứt hẳn đi.

Ngày xưa kia, cáng làm xe, người làm ngựa, thì cái pháo không sinh ra được những sự phiền-nhiễu như bây giờ. Hai nữa là pháo mình không chế được ra, mỗi một năm vừa cưới xin, mừng rỡ tết nhất mua của chú-khách không biết là bao nhiêu vạn bạc nữa; mà chẳng thà mất đồng tiền nó có to béo ra được chút nào, đốt nó có ra tiếng lưu-thủy huân-phong gì, tám hào bạc một bánh pháo Hạnh-hoa, vừa được nửa phút, vừa điếc cả tai, ngạt cả mũi, toét cả mắt, cháy quần cháy áo, cháy chân cháy tay, mà có lúc cháy cả đến cửa nhà hàng-sóm láng-giềng; trẻ con còn bé có đứa sợ hãi sinh sài sinh ốm; mất cả câu truyện, không còn được việc gì; nghĩ đến cái thứ ấy là thậm không có nghĩa-lý gì.

Khốn nhưng mà không có pháo thì những chú-khách sang đây tay mang dù rách, tay sách chăn-bông làm thế nào mà về Tầu có cửa có nhà có ruộng có nương được? Không có pháo, ai bảo mình rằng giầu có ngàn có vạn? Không có pháo thì sao thằng ăn-mày ba bữa không được hột cơm nó đến chực cửa, sao nó biết được rằng mình hơn nó nhiều? Sao nó biết được rằng bụng nó lép bao nhiêu mình có thừa tiền đốt ra khói bấy nhiêu? Không có pháo; làm thế nào được cho quan tưởng cướp đem lính về vây làng như quan Thái-Bộc Cử-đá hôm nọ? Lại không nhớ mấy năm trước Hà-nội ta có mấy ông tên đồn lừng lẫy xuốt Bắc-kỳ, vì ganh nhau đốt pháo lúc đám rước rồng Hội-quản đi qua cửa, ư?

Đó là mấy nết hay của cái pháo đó! Mà mỗi một ngày cái pháo một khéo. Xưa còn Phượng-vĩ một su một bánh, sau có Mãn-địa-hồng hào hai; sau mỗi ngày một văn-minh, Mãn-địa thêm chữ Toán, rồi đến Ngũ-sắc, rồi đến Bàn-đào, Hạnh-hoa, rồi đến tạch-đùng, pháo nổ hết lại sòe ra một tờ-giấy bốn chữ "Đinh-tài-lưỡng-vượng". Các chú thực là khéo lo cho nước Nam lắm tiền quá. Âu tiến-bộ, xe-lửa nuốt đường mỗi ngày một nhanh, trước còn 10, sau 100, sau nữa 120 kilometres một giờ. Á văn-minh, quả pháo ăn bạc, mỗi ngày một tróng, trước còn su, sau hào, sau nữa đồng bạc một phút. Chẳng có thế tiền của nước Nam để đâu cho hết?

Nước Nam thua người học-hành buôn-bán, nhưng cũng hơn người được cái hách xằng, chớ lại chịu hẳn rằng kém, sao?

T-N-T