Báo cáo tình hình buôn người năm 2019

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Báo cáo tình hình buôn người năm 2019  (2019) 
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Báo cáo được công bố ngày 2 tháng 7 năm 2019.

Việt Nam (Danh sách theo dõi Nhóm thứ 2)

Chính phủ Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu về xóa bỏ nạn buôn người nhưng đang có những nỗ lực đáng kể để thực hiện việc này. Các nỗ lực này bao gồm việc phổ biến các văn bản hướng dẫn thi hành Điều 150 và 151 – Bộ luật hình sự, thực hiện các chiến dịch nâng cao nhận thức trên quy mô lớn ở các cộng đồng có nguy cơ cao về buôn người, và tổ chức các khóa đào tạo do chính phủ hỗ trợ dành cho các cán bộ lãnh sự, công an và các cơ quan hữu quan khác để chống lại nạn buôn người. Tuy nhiên, nhìn chung chính phủ không thể hiện các nỗ lực cao hơn so với kỳ báo cáo trước. Chính phủ xác định số lượng nạn nhân ít hơn đáng kể so với những năm trước. Các nỗ lực thực thi pháp luật bị cản trở bởi việc chậm trễ ban hành các văn bản chính thức hướng dẫn thi hành Điều 150 và 151 – Bộ luật hình sự. Việc thiếu vắng cơ chế phối hợp liên ngành và việc các cán bộ cấp tỉnh thiếu hiểu biết về pháp luật chống buôn người và vấn đề bảo vệ nạn nhân tiếp tục cản trở các nỗ lực chống nạn buôn người. Tiếp tục có các báo cáo về tình trạng cưỡng bức lao động đối với các cá nhân bị tạm giữ trong các trung tâm cai nghiện ma túy của nhà nước. Mặc dù tiếp tục có báo cáo về việc các cán bộ nhà nước đồng lõa với bọn buôn người, chính phủ không công bố thông tin nào về việc điều tra, truy tố, hoặc kết án các cán bộ nhà nước đồng lõa trong các vụ buôn người. Vì vậy, Việt Nam bị hạ xuống Danh sách theo dõi Nhóm 2.

CÁC KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM CẦN ĐƯỢC ƯU TIÊN THỰC HIỆN:

Đào tạo cán bộ về các văn bản hướng dẫn thi hành Điều 150 và Điều 151 – Bộ luật hình sự, tập trung vào việc xác định và điều tra các vụ việc cưỡng bức lao động và buôn người trong nước, bao gồm cả các vụ việc mà nạn nhân là nam giới. • Chấm dứt việc để người Việt Nam bị giữ trong các trung tâm cai nghiện của nhà nước rơi vào tình trạng bị cưỡng bức lao động và cho phép xác nhận độc lập rằng tình trạng này đã chấm dứt. • Phối hợp và thực thi có hiệu quả các chính sách giữa các cơ quan nhà nước nhằm xác định và trợ giúp các nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như người lao động di trú, những người hành nghề mại dâm, lao động trẻ em, và đào tạo cán bộ có liên quan về các nghiệp vụ này. • Mở rộng đào tạo cho các nhân viên công tác xã hội, các cán bộ có trách nhiệm phản ứng đầu tiên với nạn buôn người và tòa án về các phương pháp tiếp cận lấy nạn nhân làm trung tâm khi làm việc với nạn nhân buôn người, trong đó có sự quan tâm hỗ trợ dựa trên hiểu biết về sang chấn tâm lý. • Truy tố nghiêm khắc tất cả các hình thức buôn người và kết án, trừng trị bọn buôn người, trong đó có những vụ án liên quan đến cưỡng bức lao động hoặc có cán bộ nhà nước đồng lõa. • Cấm hoàn toàn việc thu phí tuyển dụng lao động và các hình thức tuyển dụng lao động có tính chất săn mồi đối với người lao động di trú ra nước ngoài hoặc di trú đến Việt Nam, bằng việc tăng cường các nỗ lực giám sát các công ty tuyển dụng lao động và bên thứ ba môi giới lại lao động, truy tố các mạng lưới môi giới lại lao động có tính chất săn mồi hoặc bất hợp pháp. • Sửa đổi Bộ luật hình sự để tội phạm hóa tất cả các hành vi buôn bán nô lệ tình dục đối với trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi phù hợp với pháp luật quốc tế. • Tăng cường hợp tác liên ngành nhằm thực thi có hiệu quả kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn người, trong đó làm rõ vai trò của các cơ quan chính quyền trung ương và cấp tỉnh, tích hợp toàn bộ dữ liệu về buôn người vào các hoạt động thực thi pháp luật, bố trí đầy đủ nguồn lực cho kế hoạch hành động quốc gia. • Tăng ngân sách quốc gia cho chính quyền cấp tỉnh để cung cấp các dịch vụ giúp nạn nhân buôn người tái hòa nhập cộng đồng.

HOẠT ĐỘNG TRUY TỐ

Chính phủ đã giảm bớt các nỗ lực thực thi pháp luật. Điều 150 – Bộ luật hình sự tội phạm hóa hành vi buôn bán người lao động và buôn người vì mục đích tình dục đối với nạn nhân là người đã thành niên và quy định hình phạt tù từ 5 đến 10 năm và phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng (VNĐ) ($862 đến $4.310). Điều 151 tội phạm hóa hành vi buôn bán người lao động và buôn người vì mục đích tình dục đối với nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi và quy định hình phạt tù từ 7 đến 12 năm và phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu VNĐ ($2.160 đến $8.620). Các hình phạt này đủ mức độ nghiêm khắc, và nếu so sánh với mức hình phạt đối với hành vi buôn bán người vì mục đích tình dục thì tương đương với các hình phạt quy định cho các tội phạm nghiêm trọng khác như tội hiếp dâm. Điều 150 không thống nhất với pháp luật quốc tế, áp dụng đối với trẻ em từ 16 tuổi đến 17 tuổi, và yêu cầu phải có thủ đoạn ép buộc, lừa gạt, hoặc cưỡng bức thì mới cấu thành hành vi buôn người vì mục đích tình dục; do đó, quy định này không tội phạm hóa tất cả các hình thức buôn bán trẻ em vì mục đích tình dục. Theo báo cáo của xã hội dân sự, điều này dẫn đến sự lúng túng về cách thức xử lý các vụ việc liên quan đến trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi – đặc biệt là các vụ việc liên quan đến buôn bán người lao động – và dẫn đến hậu quả là các nạn nhân bị đối xử như người đã thành niên trong hầu hết các vụ việc. Tháng 9 năm 2018, Tòa án nhân dân tối cao ban hành một thông tư quy định chi tiết về thủ tục xét xử trong các vụ việc liên quan đến nạn nhân dưới 18 tuổi, nhằm bảo đảm thủ tục tố tụng tại tòa án thân thiện với trẻ em hơn. Chưa đủ thời gian kể từ khi kết thúc kỳ báo cáo để đánh giá liệu thông tư nói trên có đủ để khắc phục bất cập pháp lý về đối xử với trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi như với người đã thành niên trong các vụ việc buôn người vì mục đích tình dục hay không.

Mặc dù Điều 150 và 151 đã có hiệu lực trong kỳ báo cáo trước, đến tháng 1 năm 2019, nhà nước mới ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, và đến tháng 3 năm 2019, các văn bản này mới có hiệu lực. Sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn có thể đã góp phần dẫn đến số vụ việc buôn người được điều tra và truy tố trong kỳ báo cáo này giảm đi. Đây là năm thứ bảy liên tiếp chính phủ không truy tố bất kỳ một kẻ buôn người nào theo các quy định về buôn bán người lao động trong Luật phòng chống mua bán người. Theo Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và Bộ đội Biên phòng Việt Nam (thuộc Bộ Quốc phòng) – thường hợp tác với đối tác nước ngoài – đã xác định 211 vụ buôn người (con số tương ứng năm 2017 là 350 vụ và năm 2016 là 234 vụ), bắt hơn 276 đối tượng bị cáo buộc là buôn bán người (con số tương ứng năm 2017 là hơn 500 người và năm 2016 là 308 người bị cáo buộc). Viện kiểm sát nhân dân các cấp báo cáo đã truy tố 194 bị can về tội mua bán người (con số tương ứng năm 2017 là 245 bị can, năm 2016 là 295 bị can, năm 2015 là 442 bị can và năm 2014 là 472 bị can) và hệ thống tòa án đã kết án 213 bị cáo (con số tương ứng năm 2017 là 244 bị cáo, năm 2016 là 275 bị cáo); tuyên án từ dưới 3 năm tù đến 20 năm tù; tuy nhiên một số bị cáo bị tuyên án phạt tù được hưởng án treo. Các cơ quan nhà nước tiếp tục báo cáo về tình trạng dữ liệu có sự chênh lệch, chồng chéo, hoặc không đầy đủ về thực thi luật chống buôn người và xác định nạn nhân, và nhà chức trách thường không tách bạch giữa các vụ buôn người với các vụ đưa người di cư trái phép. Trong kỳ báo cáo, chính phủ đã ký kết một thỏa thuận song phương về chống buôn người với Vương quốc Anh nhằm cải thiện sự phối hợp thực thi pháp luật, và một thỏa thuận với Hàn Quốc nhằm tăng cường phối hợp giữa các cán bộ tư pháp, bao gồm phối hợp đào tạo kiểm sát viên Việt Nam.

Tình trạng thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan cấp tỉnh, ngân sách thường xuyên eo hẹp, nhận thức yếu kém của các cán bộ địa phương về luật chống buôn người, và sự hiểu biết không rõ về vai trò, trách nhiệm của các tỉnh trong kế hoạch hành động quốc gia tiếp tục cản trở các nỗ lực thực thi pháp luật hiệu quả. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành tổ chức lại Bộ Công an trên quy mô lớn, sáp nhập Cục Tham mưu cảnh sát (C42) chịu trách nhiệm về chính sách và nghiệp vụ chống buôn người với Cục Cảnh sát hình sự (C45) chịu trách nhiệm thực hiện công tác chống buôn người. Theo báo cáo của xã hội dân sự, mặc dù việc sáp nhập hai cục này có thể cải thiện sự lưu chuyển thông tin và sự phối hợp liên ngành, cùng với tỷ lệ thay đổi nhân sự đặc biệt cao trong Bộ Công an, sự xáo trộn này đã làm chậm đáng kể các nỗ lực thực thi pháp luật. Ngành công an tiếp tục lồng ghép nội dung chống buôn người vào chương trình đào tạo các cán bộ mới được tuyển dụng; Bộ Công an đã tổ chức 12 khóa đào tạo cho 500 cán bộ công an, và phối hợp với một nhà tài trợ quốc tế tổ chức các khóa đào tạo về tấn công tình dục đối với trẻ em, trong đó có buôn bán trẻ em vì mục đích tình dục. Chính phủ báo cáo rằng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đã điều chỉnh các khóa đào tạo để đưa vào nội dung xử lý các tội phạm buôn người đối với nạn nhân dưới 16 tuổi. Mặc dù tiếp tục có báo cáo về việc các cán bộ nhà nước đồng lõa với bọn buôn người, chính phủ không công bố thông tin nào về việc điều tra, truy tố, hoặc kết án các cán bộ nhà nước đồng lõa trong các vụ buôn người.

BẢO VỆ NẠN NHÂN

Chính phủ đã giảm bớt các nỗ lực trong việc bảo vệ nạn nhân. Năm 2018, nhà chức trách công bố đã xác định 490 nạn nhân buôn người (con số tương ứng năm 2017 là 670 nạn nhân và năm 2016 là 1.128 nạn nhân). Chính phủ không cung cấp con số thống kê các vụ việc buôn người theo hình thức buôn người, tuổi hoặc giới tính của nạn nhân, nơi chuyển đi và đích đến của việc buôn người. Theo thông tin không chính thức, các cán bộ Bộ Công an ước tính rằng đại đa số các vụ việc được phát hiện đều liên quan đến buôn người xuyên quốc gia. Một số cán bộ ghi nhận có sự gia tăng về cưỡng bức lao động và lưu ý rằng việc thu thập dữ liệu không đầy đủ và phối hợp liên ngành kém dẫn đến số nạn nhân được xác định ít đi. Các cán bộ bảo trợ xã hội thể hiện sự thiếu hiểu biết về nguy cơ dễ trở thành nạn nhân buôn người của người lao động di trú, và thường coi những người này đơn thuần là lao động bất hợp pháp. Một số cán bộ tiếp tục nhầm lẫn giữa hành vi buôn người với hành vi tổ chức đưa người vượt biên trái phép, dẫn đến cản trở việc xác định các nạn nhân là người tự nguyện di cư ra nước ngoài. Chính phủ vẫn áp dụng các tiêu chí xác định nạn nhân phổ biến theo Sáng kiến phối hợp cấp bộ trưởng về chống buôn người tiểu vùng sông Mekong (COMMIT) và vẫn duy trì quy trình chính thức để xác định nạn nhân, nhưng không sử dụng nó một cách chủ động hoặc rộng rãi để xác định nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như phụ nữ bị bắt vì hành nghề mại dâm, người lao động di trú từ nước ngoài trở về và lao động trẻ em. Chính quyền địa phương và chính quyền cấp tỉnh đôi khi thể hiện rằng họ không hiểu rõ về xác định nạn nhân, ví dụ trong một số trường hợp nhầm lẫn việc này với xác nhận các giấy tờ tùy thân chính thức. Các nạn nhân là người nước ngoài, trong đó có trẻ em, vẫn có nguy cơ bị trục xuất cao mà không được sàng lọc hoặc chuyển đến các cơ sở bảo vệ nạn nhân. Các tổ chức phi chính phủ cho biết quy trình xác định nạn nhân vẫn còn quá rắc rối và phức tạp, yêu cầu sự xác nhận của nhiều bộ để nạn nhân có thể chính thức được xác định và hỗ trợ.

Chính phủ cũng không chuyển nạn nhân đến các cơ sở bảo vệ nạn nhân một cách có hệ thống do quy trình chuyển nạn nhân còn khiếm khuyết, ví dụ một số cán bộ biên phòng chưa quen thuộc với tội phạm buôn người, thiếu sự hợp tác giữa các vùng, các quy trình thu thập dữ liệu chưa đầy đủ. Chính quyền trung ương không phân bổ kinh phí đầy đủ cho việc bảo vệ nạn nhân, khuyến khích chính quyền cấp tỉnh sử dụng ngân sách riêng của tỉnh cho các chương trình chống buôn người nhằm tiếp tục phân cấp trách nhiệm này cho địa phương, và dựa chủ yếu vào xã hội dân sự để cung cấp các dịch vụ bảo vệ nạn nhân với sự hỗ trợ hạn chế bằng hiện vật. Năm 2018, chính phủ công bố đã hỗ trợ toàn bộ 490 nạn nhân được xác định (con số tương ứng năm 2017 là 500 nạn nhân và năm 2016 là 600 nạn nhân) về phương diện tư vấn tâm lý ban đầu, tư vấn chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ pháp lý và tài chính; chính phủ công bố đã hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho các nạn nhân với số lượng không được thống kê cụ thể, trong đó có việc cấp các khoản vay kinh doanh nhỏ. Không có cơ sở tạm trú của nhà nước dành riêng cho nạn nhân là nam giới hoặc trẻ em, mặc dù các cơ sở hiện tại cung cấp sự trợ giúp cho tất cả các nạn nhân khi cần thiết. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh vẫn dành 2 phòng trong một cơ sở tạm trú của nhà nước cho các nạn nhân buôn người được đưa qua thành phố Hồ Chí Minh. Họ có thể ở đây tối đa 2 tháng. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH) và Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thường chuyển nạn nhân đến các tổ chức phi chính phủ tùy theo nhu cầu của nạn nhân. Bộ LĐ-TBXH tiếp tục vận hành 400 trung tâm bảo trợ xã hội thông qua chính quyền địa phương, cung cấp dịch vụ cho nhiều nhóm dễ bị tổn thương, trong đó có nạn nhân buôn người; các trung tâm này được bố trí nhân viên và nguồn lực không đồng đều và thiếu nhân lực được đào tạo thích hợp để hỗ trợ các nạn nhân. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam hợp tác với các tổ chức phi chính phủ và với nguồn tài trợ của nước ngoài đã tiếp tục vận hành ba cơ sở tạm trú ở các thành phố đô thị, trong đó một cơ sở dành riêng cho nạn nhân buôn người. Các cán bộ chính quyền địa phương và chính quyền cấp tỉnh đôi khi sử dụng những biện pháp có thể gây sang chấn tâm lý trở lại cho nạn nhân buôn người. Đi ngược lại với thông lệ quốc tế tốt nhất, một cơ sở tạm trú đã giữ nạn nhân trong nhiều năm và hạn chế tự do đi lại của những người sống trong cơ sở đó. Các dịch vụ tâm lý-xã hội cho nạn nhân vẫn chưa phát triển, cần đào tạo về các phương pháp tiếp cận dựa trên hiểu biết về sang chấn tâm lý cho tất cả các chủ thể tiếp xúc với nạn nhân, bao gồm các nhân viên công tác xã hội, các cán bộ tuyến đầu và ngành tòa án. Các tổ chức xã hội dân sự cho biết đã trợ giúp 167 nạn nhân buôn người.

Chính phủ vẫn duy trì các tùy viên lao động tại các cơ quan ngoại giao ở những nước có số lượng lớn người lao động di trú Việt Nam theo hồ sơ. Các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài này có thể cung cấp nhu yếu phẩm, dịch vụ vận chuyển và chăm sóc y tế cho công dân Việt Nam là nạn nhân của buôn người ra nước ngoài. Chính phủ công bố đã cho hồi hương 386 nạn nhân Việt Nam trong năm 2018 (con số tương ứng năm 2017 là 138 nạn nhân). Theo báo cáo, một số viên chức ngoại giao không được đào tạo đầy đủ để hỗ trợ nạn nhân một cách thích hợp, và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài báo cáo rằng một số cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài đã không đáp lại các nỗ lực của chính phủ nước ngoài và tổ chức phi chính phủ trong việc kết nối các cơ quan này với nạn nhân người Việt. Chính phủ khuyến khích các nạn nhân buôn người hỗ trợ trong các quy trình tố tụng tư pháp chống lại bọn buôn người và có một số biện pháp bảo vệ và đền bù cho họ, ví dụ cung cấp phòng xử án thân thiện với trẻ em và không yêu cầu nạn nhân phải có mặt tại phiên tòa; tuy nhiên, chính phủ không công bố mức độ áp dụng các biện pháp này. Pháp luật bảo vệ các nạn nhân không bị truy tố về những hành vi bất hợp pháp mà bọn buôn người đã ép buộc họ phải thực hiện; tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ báo cáo rằng các nạn nhân thường ít có khả năng khai báo về việc họ bị lạm dụng trong quy trình tố tụng tư pháp do lo sợ rằng họ có thể bị bắt hoặc bị trục xuất, và những nạn nhân đã được hồi hương sợ bị bắt vì vượt biên không có giấy tờ. Xã hội dân sự báo cáo rằng các nạn nhân người Việt di cư bằng các phương tiện không chính thức, đã dính líu vào hoạt động phạm tội do họ trở thành nạn nhân buôn người, hoặc đã từng chỉ trích chính phủ Việt Nam lo sợ bị nhà chức trách trả thù, ít có khả năng hơn trong việc tìm kiếm sự hỗ trợ, và dễ trở thành nạn nhân buôn người một lần nữa. Các quan sát viên quốc tế cho biết các quan chức chính phủ thường đổ lỗi cho công dân Việt Nam về tình trạng họ bị bóc lột ở nước ngoài hoặc cho rằng các nạn nhân đã thổi phồng việc họ bị lạm dụng để tránh bị truy cứu về các vi phạm pháp luật xuất nhập cảnh. Chính phủ không cho các nạn nhân nước ngoài các lựa chọn pháp lý thay thế cho việc trục xuất họ tới những quốc gia nơi họ có thể phải đối mặt với sự trả thù hay khó khăn.

PHÒNG NGỪA

Chính phủ vẫn duy trì các nỗ lực phòng ngừa tình trạng buôn người. Trong kỳ báo cáo này, chính phủ tiếp tục thực thi giai đoạn 3 Kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn người 2016-2020; tuy nhiên, xã hội dân sự cho biết việc thực thi Kế hoạch hành động quốc gia tiến triển chậm do quá trình tái cơ cấu tại Bộ Công an. Chính phủ tiếp tục đánh giá 5 năm thực hiện các tiêu chuẩn thực thi Kế hoạch hành động quốc gia. Chính phủ chưa phân bổ đầy đủ kinh phí để thực hiện Kế hoạch này cho năm thứ tư và sự thiếu vắng cơ chế hợp tác giữa các bộ đã cản trở việc thực thi hiệu quả kế hoạch. Mặc dù nhà nước đã ban hành nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 150 và 151 – Bộ luật hình sự, nhưng đến ngày 15 tháng 3 nghị quyết này mới có hiệu lực, vì vậy quá muộn để nghị quyết có tác động đến việc thực thi các điều luật nói trên trong kỳ báo cáo. Bộ Ngoại giao tổ chức các khóa đào tạo về phòng ngừa và đấu tranh chống buôn người dưới hình thức các khóa đào tạo định kỳ về công tác lãnh sự cho các cán bộ trước khi họ nhận nhiệm vụ tại các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Bộ Ngoại giao cũng tổ chức các hội thảo về di cư quốc tế và phòng ngừa nạn buôn người nhằm nâng cao năng lực cho các cán bộ làm việc tại cơ quan Bộ Ngoại giao và các địa phương ở Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức, tập trung vào các nhóm nguy cơ cao như người lao động nữ di trú và lao động nông nghiệp, công nhân xây dựng và các cộng đồng đưa người lao động di trú ra nước ngoài, cũng như nhắm vào các trường học ở các cộng đồng có nguy cơ cao. Nhà chức trách công bố đã phát 25.000 bản sao tài liệu nâng cao nhận thức ở các khu vực biên giới và 900 cuốn sổ tay ở các cộng đồng đặc biệt dễ bị tổn thương. Trong kỳ báo cáo, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo báo chí của nhà nước phát sóng trên 700 phim tài liệu và tin tức để nâng cao nhận thức của công chúng về nạn buôn người. Xã hội dân sự cho biết mặc dù chính phủ nỗ lực dịch các tài liệu tuyên truyền sang ngôn ngữ địa phương để nâng cao nhận thức, nhưng nhiều cộng đồng có nguy cơ cao về buôn người cảm thấy thông tin trong các tài liệu trên vẫn trừu tượng và khó hiểu. Bộ LĐ-TBXH vận hành đường dây nóng hoạt động 24/24 giờ dành cho các nạn nhân buôn người; nhà chức trách công bố đã nhận được khoảng 2.100 cuộc gọi đến đường dây nóng (con số tương ứng năm 2017 là 2.700 cuộc gọi) và đã chuyển 30 vụ việc cho các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dịch vụ của nhà nước (con số tương ứng năm 2017 là 65 vụ việc). Chính phủ tiếp tục hỗ trợ nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số hơn trên đường dây nóng, bao gồm cả tiếng Anh. Tuy nhiên, xã hội dân sự cho biết những người gọi đến đường dây nóng gặp khó khăn khi nói chuyện với điện thoại viên có thổ ngữ của một vùng khác.

Tiếp tục có các báo cáo về quản lý di cư kém và quản lý ngành môi giới lao động kém dẫn đến tình trạng lao động để trừ nợ và bóc lột lao động đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài. Bộ LĐ-TBXH đã phối hợp với các cơ quan công an tiến hành thanh tra và phát hiện 91 vụ việc liên quan đến vi phạm trong tuyển dụng lao động đi làm việc ở nước ngoài, phát hiện 55 tổ chức và cá nhân không có các giấy phép liên quan. Các chủ thể vi phạm đã bị xử phạt hành chính. Bộ LĐ-TBXH đã phối hợp với các cơ quan truyền thông đăng tải 300 bài báo về các quy định và chính sách đối với người lao động di trú, tổ chức các khóa đào tạo cho cán bộ và các doanh nghiệp tuyển dụng lao động, và giải quyết các khiếu nại của người lao động. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), tổ chức công đoàn toàn quốc đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình trạng bóc lột người lao động Việt Nam ở nước ngoài. TLĐLĐVN hợp tác với một tổ chức phi chính phủ bắt đầu xúc tiến thành lập một hiệp hội người lao động di trú Việt Nam ở Hàn Quốc để cung cấp thông tin hiệu quả hơn cho người lao động di trú Việt Nam về các quyền của họ cũng như về các dịch vụ sẵn có dành cho họ. Bất chấp các nỗ lực này, các tổ chức tuyển dụng lao động của bên thứ ba vô lương tâm thường đẩy người lao động di trú vào tình trạng nợ nần. Mặc dù chính phủ đã ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác với Chính phủ Nhật Bản trong năm 2017 nhằm tăng cường bảo vệ công dân Việt Nam tham gia Chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ thuật của Nhật Bản (TITP), vẫn tiếp tục có các báo cáo về tình trạng bóc lột nghiêm trọng người lao động Việt Nam. Các tổ chức phi chính phủ và truyền thông ở Nhật Bản cho biết người lao động Việt Nam trả $7.000 cho bên thứ ba môi giới ở Việt Nam trước khi tham gia chương trình TITP và sau đó thường phải trả $4.000 đến $5.000 nếu họ vi phạm hợp đồng, tự khiến họ rơi vào tình trạng buộc phải lao động để trừ nợ. Các quan sát viên quốc tế lưu ý rằng các quan chức chính phủ Việt Nam đôi khi coi việc xử lý tình trạng bóc lột người lao động Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của nước sở tại và nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của họ. Chính phủ tiếp tục các nỗ lực giảm nhu cầu mua dâm.

THỰC TRẠNG BUÔN NGƯỜI Ở VIỆT NAM

Như đã báo cáo trong 5 năm qua, bọn buôn người bóc lột các nạn nhân trong nước và nước ngoài ở Việt Nam và bóc lột các nạn nhân từ Việt Nam đi ra nước ngoài. Đàn ông và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài để lao động tự do hoặc thông qua các công ty tuyển dụng lao động của nhà nước, tư nhân hoặc cổ phần. Một số công ty tuyển dụng không đáp lại các yêu cầu trợ giúp của người lao động trong những trường hợp họ bị bóc lột, và một số công ty thu phí quá cao khiến cho người lao động dễ bị rơi vào tình trạng buộc phải lao động trừ nợ. Bọn buôn người biến các nạn nhân trở thành đối tượng của cưỡng bức lao động trong các ngành xây dựng, ngư nghiệp, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ và công nghiệp chế tạo, chủ yếu ở Angola, Nhật Bản, Lào, Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan và Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất; ngày càng có nhiều báo cáo về nạn nhân buôn người là người lao động Việt Nam ở Vương quốc Anh và Ailen (trong đó có người lao động ở các trang trại trồng cần sa), châu Âu, Trung Đông, và trong các ngành công nghiệp hàng hải Thái Bình Dương. Các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn của Việt Nam ở các nước láng giềng như Lào có thể bóc lột người lao động Việt Nam và nước ngoài. Bọn buôn người bóc lột phụ nữ và trẻ em Việt Nam là nạn nhân của tình trạng buôn bán nô lệ tình dục ra nước ngoài; nhiều người bị lừa gạt về các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc, Campuchia, Lào và các nước châu Á khác, trong đó có Malaysia, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Thái Lan. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn theo môi giới quốc tế hoặc để làm việc trong các nhà hàng, cơ sở mát-xa, quán bar karaoke – bao gồm đến các nước như Trung Quốc, Cộng hòa Síp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Ả rập Xê út, Singapore, và Đài Loan – trở thành nô lệ giúp việc gia đình hoặc nô lệ tình dục. Bọn buôn người ngày càng gia tăng sử dụng internet, các trang web chơi game và đặc biệt là mạng xã hội để nhử các nạn nhân tiềm tàng vào những tình huống dễ bị tổn thương; đàn ông thường dụ dỗ phụ nữ trẻ và trẻ em gái vào các mối quan hệ hẹn hò trên mạng và thuyết phục họ ra nước ngoài, sau đó biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc nô lệ tình dục. Một số kẻ buôn người đăng hình ảnh của mình giống như cảnh sát trên mạng xã hội để chiếm được lòng tin của nạn nhân. Trong quá trình di cư, các băng nhóm tội phạm ở châu Âu và bọn buôn người thường bóc lột nạn nhân Việt Nam dưới hình thức cưỡng bức lao động hoặc bóc lột tình dục trước khi nạn nhân đến được đích cuối cùng.

Ở trong nước, bọn buôn người bóc lột đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam – đặc biệt là trẻ em lang thang và trẻ em khuyết tật – biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động, mặc dù có rất ít thông tin về các vụ việc này. Bọn buôn người bóc lột trẻ em và người đã thành niên dưới hình thức cưỡng bức lao động trong ngành may mặc, tại đó công nhân bị ép buộc làm việc thông qua hình thức đe dọa và hăm dọa. Có các báo cáo về việc trẻ em 6 tuổi đã phải làm nghề may dưới các điều kiện cưỡng bức lao động trong các cơ sở may mặc nhỏ thuộc sở hữu tư nhân và trong các xưởng không chính thức, và trẻ em 12 tuổi đã phải làm việc khi đang bị tạm giữ trong các trung tâm cai nghiện của nhà nước. Bọn buôn người ép buộc trẻ em hành nghề bán rong và ăn xin trên đường phố ở các trung tâm đô thị lớn. Chúng biến một số trẻ em trở thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc lao động để trừ nợ trong các nhà máy gạch, các gia đình ở đô thị và các mỏ vàng ở nông thôn do tư nhân khai thác. Bọn buôn bán nô lệ tình dục nhắm mục tiêu vào nhiều trẻ em đến từ các vùng nông thôn nghèo và ngày càng nhiều phụ nữ đến từ tầng lớp trung lưu và khu vực đô thị. Bọn buôn người cũng ngày càng gia tăng bóc lột trẻ em gái thuộc các cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, bao gồm bóc lột nô lệ tình dục và nô lệ giúp việc gia đình, bằng cách lợi dụng tập quán bắt cóc cô dâu truyền thống để thực hiện hoạt động tội phạm của chúng. Khách du lịch tình dục trẻ em, theo báo cáo đến từ châu Á, Vương quốc Anh và các nước khác ở châu Âu, Australia, Canada và Hoa Kỳ, có bóc lột trẻ em ở Việt Nam. Các nhà hàng Bắc Triều Tiên hoạt động ở Việt Nam có thể bóc lột người lao động Bắc Triều Tiên dưới hình thức cưỡng bức lao động.

Mặc dù chính phủ công bố rằng người sử dụng ma túy không còn bị cưỡng bức lao động trong các trung tâm cai nghiện, nhưng các tổ chức quốc tế và giới truyền thông báo cáo rằng nhà chức trách vẫn tiếp tục duy trì tình trạng nói trên. Một điều luật năm 2014 yêu cầu phải có trình tự tố tụng tư pháp trước khi tạm giữ người sử dụng ma túy trong các trung tâm cai nghiện bắt buộc và người bị tạm giữ chỉ phải làm việc tối đa bốn giờ một ngày. Tháng 8 năm 2018, có các báo cáo về việc 200 người trốn khỏi một trung tâm cai nghiện ma túy của nhà nước khai rằng nhà chức trách ép buộc họ làm việc tám giờ một ngày không có thù lao và trừng phạt họ, bao gồm cả đánh đập, nếu họ “cư xử không đúng”. Pháp luật Việt Nam cho phép bắt buộc tù nhân lao động chân tay, tức là cho phép sử dụng cưỡng bức lao động như một phương tiện để trừng phạt những người bất đồng chính kiến về chính trị và tôn giáo. Theo báo cáo, tù nhân làm việc trong ngành nông nghiệp và chế tạo, và đã có các báo cáo về việc tù nhân lương tâm đang làm việc trong các ngành nghề độc hại như chế biến hạt điều. Các cán bộ nhà nước Việt Nam, chủ yếu ở cấp xã và thôn, đồng lõa và giúp sức cho việc buôn bán hoặc bóc lột nạn nhân bằng cách nhận hối lộ của bọn buôn người, bỏ qua các dấu hiệu cảnh báo buôn người, và moi tiền để đổi lấy việc nạn nhân được đoàn tụ với gia đình.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: