Bước tới nội dung

Báo cáo về tình trạng buôn người năm 2016

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Báo cáo về tình trạng buôn người năm 2016  (2016) 
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Báo cáo được công bố ngày 1 tháng 7 năm 2016.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ

Cục Theo dõi và Chống buôn người

Thông điệp từ Ngoại trưởng Kerry

Bạn đọc thân mến:

Nếu có một chủ đề duy nhất trong Báo cáo về Nạn buôn người năm nay, thì đó chính là niềm tin rằng không điều gì là không thể tránh được trong vấn nạn buôn bán con người. Niềm tin đó là nơi mà quá trình thay đổi thực sự bắt đầu – khi nhận ra rằng chỉ vì một sự lạm dụng nào đó đã xảy ra trong quá khứ không có nghĩa là chúng ta phải chịu đựng sự lạm dụng đó trong tương lai, hay chúng ta có thể chấp nhận làm ngơ. Thay vào đó, chúng ta nên tự hỏi, sẽ ra sao nếu nạn nhân bị buôn bán là con gái, con trai, hay anh chị em mình?

Báo cáo TIP năm nay đặt ra những câu hỏi như vậy, bởi việc kết thúc chế độ nô lệ hiện đại không chỉ là một cuộc chiến chúng ta cần nỗ lực – đó là một cuộc chiến chúng ta có thể và phải giành chiến thắng.

Báo cáo TIP là kết quả của những nỗ lực trong suốt một năm dài đòi hỏi sự đóng góp và theo dõi sát sao từ phía các cán bộ tại Hoa Kỳ cũng như tại các phái đoàn ngoại giao của chúng tôi trên toàn thế giới, chính phủ của các nước chủ nhà và các tổ chức xã hội dân sự. Đây là những nỗ lực rất xứng đáng vì Báo cáo này là một trong những biện pháp tốt nhất chúng ta có, để nói lên tiếng nói của những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em, những người thiếu một diễn đàn hiệu quả để tiếng nói của họ được lắng nghe. Với uy tín đã có, Báo cáo này cũng là một nguồn tài liệu chứng thực và truyền cảm hứng cho các nhà hoạt động ở khắp các châu lục đang đấu tranh nhằm chấm dứt tai họa của nạn buôn bán người.

Mục đích của Báo cáo này là để khai sáng, tiếp thêm nghị lực và truyền thêm sức mạnh. Đó là lý do tại sao báo cáo tổng hợp sự hiểu biết sâu sắc của các Tổ chức Phi chính phủ, những người ủng hộ, và những nạn nhân còn sống sót với những trải nghiệm trực tiếp về tội ác khủng khiếp này. Bằng việc phát hành báo cáo, chúng tôi muốn công chúng thấy được đầy đủ bản chất và quy mô của ngành công nghiệp buôn người bất hợp pháp trị giá 150 tỷ đô-la này. Chúng tôi muốn cung cấp bằng chứng và dữ liệu thực tế nhằm giúp đỡ những người đang làm việc để đạt được các cải cách và làm dịu nỗi đau. Và chúng tôi muốn mang lại một sự khích lệ mạnh mẽ cho chính quyền các cấp để họ làm tất cả những việc có thể nhằm ngăn chặn và truy tố hành động buôn người, xác định và hỗ trợ các nạn nhân, và bảo vệ nhóm dân cư có nguy cơ cao.

Hoa Kỳ cam kết làm việc với các đối tác quốc tế của chúng tôi để giải quyết những nguyên nhân gốc rễ và hậu quả của chế độ nô lệ hiện đại, cũng như để trao đổi các ý tưởng và phương pháp hành động sáng tạo, song vẫn còn nhiều việc phải làm. Chế độ nô lệ hiện đại có liên quan tới một loạt những thách thức trong thế kỷ 21 – từ việc phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường, tới nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em gái, và việc đấu tranh chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.Bất cứ nơi nào chúng ta thấy nạn đói nghèo và sự thiếu vắng cơ hội – bất cứ nơi nào có nền pháp quyền yếu kém, nơi mà nạn tham nhũng đã ăn sâu bám rễ, nơi các nhóm thiểu số bị ngược đãi, lạm dụng, và nơi người dân không thể trông cậy vào sự bảo vệ của chính phủ – thì chúng ta thấy nơi đó không chỉ dễ bị nạn buôn người tấn công, mà còn là vùng đất của sự miễn tố, nơi những kẻ buôn bán người có thể truy lùng, bóc lột và giết hại nạn nhân.

Báo cáo năm nay nhấn mạnh sự cần thiết phải gia tăng chú ý tới công tác phòng ngừa nạn buôn bán người. Nó khuyến khích chính phủ các nước xác định và làm rõ những nhóm gặp nhiều nguy cơ nhất trong xã hội, và tạo ra phương pháp hiệu quả để nhận diện về những nhóm dân số dễ bị tổn thương và giúp các phản ứng viên đầu tiên phát hiện ra cách thức mà những kẻ buôn người đã sử dụng. Bằng việc hiểu được nhu cầu của các nhóm dễ bị tổn thương, các chính phủ có thể hợp tác với các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân để bảo vệ những người vô tội trước những kẻ có nguy cơ buôn người.

Tính nghiêm trọng của thách thức này là có thực, song hãy đừng phạm sai lầm: Và cơ hội để tiến bộ cũng có thực.

Trong tháng 12, Tổng thống đã chỉ định 11 nạn nhân sống sót từ nạn buôn người vào Hội đồng Cố vấn về Nạn buôn người lần đầu tiên được lập ra ở Hoa Kỳ. Sự dũng đảm và cam kết của họ nhắc nhở tất cả chúng ta về trách nhiệm phải hành động quyết liệt để, cùng nhau, chúng ta sẽ giành thêm nhiều thắnglợi trong một cuộc chiến chắc chắn sẽ kéo dài qua nhiều thế hệ. Đó là lý do tại sao tôi hối thúc các bạn đọc Báo cáo này như là một lời kêu gọi hành động – một lời yêu cầu tất cả mọi người ở khắp nơi hãy hiện thực hóa tầm nhìn của một thế giới đang quan tâm nhiều hơn và công bằng hơn – một thế giới không còn ách nô lệ hiện đại. Trân trọng,

John F. Kerry

Ngoại trưởng

VIỆT NAM: NHÓM THỨ 2

Việt Nam là quốc gia nguồn và, trong chừng mực ít hơn, là quốc gia đích của đàn ông, phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của buôn bán nô lệ tình dục và cưỡng bức lao động. Đàn ông và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài để lao động tự do hoặc thông qua các công ty tuyển dụng lao động của nhà nước, tư nhân hoặc cổ phần. Một số công ty tuyển dụng không đáp lại các yêu cầu trợ giúp của người lao động trong những trường hợp họ bị bóc lột, và một số công ty thu phí quá cao từ người lao động, khiến cho người lao động mắc các khoản nợ cắt cổ và dễ bị rơi vào tình trạng buộc phải lao động trừ nợ. Một số nạn nhân là đối tượng của cưỡng bức lao động trong các ngành xây dựng, ngư nghiệp, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ và công nghiệp chế tạo, chủ yếu ở Đài Loan, Malaysia, Cộng hòa Triều Tiên, Lào, Angola, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất và Nhật Bản. Người lao động có thể bị ép buộc làm việc trong các điều kiện dưới chuẩn mà không được trả lương hoặc trả lương rất thấp, với các khoản nợ lớn và không có cơ chế pháp lý nào để xử lý các vi phạm pháp luật lao động. Phụ nữ và trẻ em Việt Nam là nạn nhân của nạn buôn bán nô lệ tình dục ra nước ngoài; nhiều người bị lừa gạt về các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc, Campuchia, và Lào, và các nước châu Á khác, trong đó có Thái Lan, Malaysia, Cộng hòa Triều Tiên, Đài Loan và Singapore. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn theo môi giới quốc tế hoặc để làm việc trong các nhà hàng, cơ sở mát-xa, quán bar karaoke—phần lớn sang Trung Quốc và ngày càng nhiều người sang Malaysia và Singapore—trở thành nô lệ giúp việc gia đình hoặc bị ép buộc làm gái mại dâm. Quảng cáo sai sự thật, buộc làm việc trừ nợ, thu hộ chiếu, đe dọa trục xuất là các thủ đoạn được sử dụng phổ biến để buộc nạn nhân Việt Nam trở thành nô dịch. Bọn buôn người ngày càng gia tăng sử dụng internet, các trang web chơi game và mạng xã hội để nhử các nạn nhân tiềm tàng vào những tình huống dễ bị tổn thương; ví dụ, đàn ông dụ dỗ phụ nữ trẻ và trẻ em gái vào các mối quan hệ hẹn hò trên mạng và thuyết phục họ ra nước ngoài sau đó biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc nô lệ tình dục. Các nạn nhân được tuyển dụng bởi người thân, người quen, hoặc hàng xóm, thường là các thành viên trong gia đình có biết, đồng ý hoặc thuyết phục họ. Các mạng lưới tội phạm có tổ chức ở Việt Nam tuyển người dưới chiêu bài đưa ra các cơ hội việc làm hấp dẫn và vận chuyển người Việt Nam, bao gồm cả trẻ em, tới châu Âu—đặc biệt là Vương quốc Anh—và biến họ thành nạn nhân bị cưỡng bức lao động ở các trang trại trồng cần sa.

Ở trong nước, đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam—đặc biệt là trẻ em lang thang và trẻ em khuyết tật—là nạn nhân của cưỡng bức lao động, mặc dù có rất ít thông tin về các vụ việc này. Trẻ em bị buộc phải hành nghề bán rong và ăn xin trên đường phố ở các trung tâm đô thị lớn của Việt Nam. Một số trẻ em là nạn nhân của cưỡng bức lao động và lao động để trừ nợ trong các cơ sở may mặc và nhà máy gạch không chính thức hoặc trong các gia đình ở đô thị và các mỏ vàng ở nông thôn do tư nhân khai thác. Nhiều trẻ em đến từ các vùng nông thôn nghèo và một số lượng ngày càng tăng đến từ tầng lớp trung lưu và khu vực đô thị trở thành nạn nhân của buôn bán nô lệ tình dục. Khách du lịch tình dục trẻ em, theo báo cáo đến từ châu Á, Vương quốc Anh, Australia, châu Âu, Canada và Hoa Kỳ, bóc lột trẻ em ở Việt Nam. Mặc dù một điều luật năm 2014 yêu cầu phải có trình tự tố tụng tư pháp trước khi tạm giữ người sử dụng ma túy trong các trung tâm cai nghiện bắt buộc và người bị bắt giữ chỉ phải làm việc tối đa ba giờ một ngày, nhưng một số người sử dụng ma túy bị bắt theo thủ tục hành chính theo điều luật trước đây bị cưỡng bức lao động trong các trung tâm cai nghiện. Các NGO báo cáo rằng một số cán bộ nhà nước Việt Nam, chủ yếu ở cấp xã và thôn, đồng lõa và giúp sức cho việc buôn bán hoặc bóc lột nạn nhân bằng cách nhận hối lộ của bọn buôn người, bỏ qua các dấu hiệu cảnh báo buôn người, và moi tiền để đổi lấy việc nạn nhân được đoàn tụ với gia đình.

Chính phủ Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu về xóa bỏ nạn buôn người; tuy nhiên, đã có những nỗ lực đáng kể để thực hiện điều này. Việt Nam sửa đổi Bộ luật hình sự để đưa pháp luật về chống buôn người xích lại gần hơn với chuẩn mực quốc tế, nhưng những thay đổi vẫn chưa có hiệu lực tại thời điểm kết thúc chu kỳ báo cáo. Chính phủ truy tố ít tội phạm buôn người hơn trong năm 2015, và mặc dù tiến hành điều tra nhưng chưa truy tố đối với hành vi cưỡng bức lao động. Chính phủ tiếp tục tổ chức đào tạo tập huấn về chống buôn người cho các cán bộ và xây dựng cơ chế hợp tác liên ngành; tuy nhiên, nhiều cán bộ thiếu các kỹ năng nhận diện nạn nhân hoặc điều tra các vụ việc buôn bán người lao động. Chính phủ tiếp tục biến một số cá nhân bị giam giữ hành chính trong các trung tâm cai nghiện ma túy trở thành đối tượng của cưỡng bức lao động. Các cán bộ Việt Nam ở nước ngoài đã trợ giúp cho một số lượng không xác định các nạn nhân buôn người trong năm 2015 được trở về nước và cộng tác với các NGO để giúp các nạn nhân bị buôn bán sang Trung Quốc được hồi hương. Việt Nam đã ký kết biên bản ghi nhớ với 11 quốc gia đích chủ yếu và cập nhật bản thỏa thuận với Malaysia về cấm người sử dụng lao động giữ hộ chiếu của người lao động. Các NGO báo cáo rằng các cán bộ biên phòng ở các khu vực có nguy cơ cao về buôn người tăng cường tham gia điều tra các vụ việc buôn người.

KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM:

Ban hành và thực thi đầy đủ các điều 150 và 151 của Bộ luật hình sự mới, sửa đổi các điều 119-120 của Bộ luật hình sự hiện hành nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc tất cả các hình thức buôn người và buộc tội, trừng trị bọn buôn người, đặc biệt trong những vụ án liên quan đến cưỡng bức lao động hoặc có cán bộ nhà nước đồng lõa; tiếp tục tăng cường và chủ động giám sát các công ty tuyển dụng lao động và thực thi các quy định cấm thu phí tuyển dụng không hợp lý; thực hiện đầy đủ các kế hoạch đào tạo cán bộ về thực thi các điều khoản sửa đổi Bộ luật hình sự, tập trung vào việc phát hiện và điều tra các vụ việc lao động cưỡng bức và buôn người trong nước; chấm dứt tình trạng biến những người sử dụng ma túy Việt Nam trở thành lao động cưỡng bức trong các trung tâm cai nghiện của nhà nước; thực thi các chính sách nhận diện và trợ giúp các nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như người lao động di trú, những người hành nghề mại dâm, lao động trẻ em, và đào tạo cán bộ có liên quan về các nghiệp vụ này; mở rộng đào tạo cho cán bộ lãnh sự về quyền của người lao động và các tiêu chuẩn lao động quốc tế; hỗ trợ các tổ chức quốc tế hoặc các chủ thể có liên quan khác trong việc nghiên cứu và báo cáo về các xu hướng buôn người ở Việt Nam, bao gồm việc công bố công khai các kết quả nghiên cứu; hoàn thành cơ sở dữ liệu thống kê về buôn người và phổ biến thông tin ở cấp độ quốc gia; tăng cường hợp tác liên ngành về công tác chống buôn người nhằm thực thi có hiệu quả kế hoạch hành động quốc gia và bảo đảm bố trí nguồn lực đầy đủ cho kế hoạch; xây dựng các chương trình giảm kỳ thị và thúc đẩy tái hòa nhập cho các nạn nhân buôn người trở về; thực hiện các chiến dịch chống buôn người hướng vào việc giảm bớt du lịch tình dục trẻ em; phê chuẩn và thực thi đầy đủ Công ước chống buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ACTIP) của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

HOẠT ĐỘNG TRUY TỐ

Chính phủ thể hiện các nỗ lực thực thi pháp luật không đồng đều; mặc dù có tiến bộ trong việc cải cách khung pháp lý về chống buôn người, số lượng tội phạm bị kết tội lại ít hơn. Luật phòng chống mua bán người năm 2012 của Việt Nam mở rộng các điều 119 và 120 của Bộ luật hình sự, quy định và tội phạm hóa hành vi buôn người vì mục đích tình dục và buôn bán người lao động; tuy nhiên, các điều luật này không cấm mọi hình thức buôn người, và các điều về buôn bán người lao động trong Luật phòng chống mua bán người năm 2012 chưa được áp dụng trong hoạt động truy tố do thiếu nhận thức. Tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự mới trong đó các điều 150-151 quy định về mua bán người, sửa đổi các điều 119 và 120 bằng việc mô tả hầu hết các hành vi, thủ đoạn phạm tội, và mục đích buôn người trong định nghĩa quốc tế và quy định rõ hơn các hình phạt và các tình tiết tăng nặng. Các điều khoản sửa đổi không yêu cầu phải có thủ đoạn ép buộc, lừa gạt, hoặc cưỡng bức đối với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi, nhưng quy định này nên được áp dụng đối với hành vi mua bán người dưới 18 tuổi để thống nhất với định nghĩa quốc tế. Tuy nhiên, các điều 150-151 của Bộ luật hình sự chưa có hiệu lực vào thời điểm kết thúc chu kỳ báo cáo. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm, các điều 119-120 luật chống buôn người quy định hình phạt tù từ 2 đến 20 năm và từ 3 năm đến tù chung thân, tương ứng, và phạt tiền đối với người phạm tội mua bán người từ 5 đến 50 triệu đồng ($450-$4,450); các hình phạt này đủ mức độ nghiêm khắc và tương xứng với các hình phạt quy định cho các tội phạm nghiêm trọng khác như tội hiếp dâm. Năm 2015, chính phủ đã có tiến bộ ở mức khiêm tốn trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu tin học quốc gia—khởi động từ năm 2014—để theo dõi các vụ việc buôn người. Mặc dù mới ở giai đoạn sơ khai, cơ sở dữ liệu đã cải thiện được độ chính xác của các số liệu thống kê về buôn người; tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch trong dữ liệu liên ngành về thực thi luật chống buôn người và nhận diện nạn nhân.

Chính phủ đã bắt 544 người bị tình nghi mua bán người, truy tố 442 người và kết án 217 người phạm tội mua bán người (theo các điều 119 hoặc 120 luật chống buôn người), trong khi con số này trong năm 2014 là 472 người bị truy tố và 413 người bị kết án. Hình phạt được tuyên dao động từ quản chế đến tù chung thân. Các nhà chức trách không công bố bao nhiêu vụ việc liên quan đến buôn người vì mục đích tình dục hay buôn bán người lao động hoặc bao nhiêu vụ việc buôn người trong nước hay buôn người xuyên quốc gia. Bởi vì Bộ luật hình sự không tội phạm hóa riêng hành vi buôn bán người lao động, các cán bộ thực thi pháp luật thiếu tự tin về cơ sở pháp lý để truy tố hành vi buôn bán người lao động và coi các vụ việc này là vi phạm hành chính theo pháp luật lao động, trong đó không quy định hình phạt đối với hành vi này. Cơ quan quản lý nhà nước về lao động đình chỉ giấy phép của một vài công ty, yêu cầu các công ty thực hiện quy định về đào tạo trước khi đi xuất khẩu lao động cho người lao động, và tiến hành thanh tra dựa trên các khiếu nại về lao động nhưng hầu hết để cho các công ty tuyển dụng lao động tự giải quyết tranh chấp hợp đồng với cá nhân người lao động liên quan đến tuyển dụng lừa đảo và các điều kiện cho thấy dấu hiệu của cưỡng bức lao động. Chính phủ đã cử các đoàn liên ngành tham gia điều tra theo từng vụ việc cụ thể ở Campuchia, Trung Quốc, Kazakhstan, Lào, Ba Lan, Nga, Singapore, Thái Lan và Vương quốc Anh, và thường xuyên hơn ở Trung Quốc, Campuchia và Lào đối với các hoạt động cứu trợ.

Tình trạng thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan cấp tỉnh đã cản trở việc thực thi pháp luật nói chung ở Việt Nam, và do ngân sách eo hẹp nên một số nhà chức trách địa phương đã không theo đuổi các vụ việc buôn người, đặc biệt là khi các vụ việc này xảy ra ở các vùng xa xôi hẻo lánh. Ngoài ra, nhận thức yếu kém của một số cán bộ về khung pháp lý về chống buôn người đã dẫn đến các nỗ lực thực thi pháp luật không đồng đều. Ngành công an đã bổ sung một học phần về chống buôn người trong chương trình đào tạo tổng quát cho cán bộ mới được tuyển dụng. Chính phủ đã tổ chức 20 buổi tập huấn về chống buôn người cho hơn 500 cán bộ liên ngành. Bộ Công an hợp tác với chính quyền Australia tổ chức đào tạo về chống buôn người cho 26 cán bộ công an trên cả nước Việt Nam. Một số cán bộ đồng lõa, chủ yếu ở cấp xã và thôn, nhận hối lộ từ bọn buôn người, bỏ qua các dấu hiệu buôn người, và moi tiền để đổi lấy việc đưa nạn nhân đoàn tụ với gia đình họ. Chính phủ không công bố thông tin về điều tra, truy tố, kết án cán bộ đồng lõa trong các vụ phạm tội buôn người.

BẢO VỆ NẠN NHÂN

Chính phủ vẫn chỉ duy trì các nỗ lực khiêm tốn trong việc bảo vệ nạn nhân. Năm 2015, các nhà chức trách phát hiện 1.000 người có thể là nạn nhân buôn người—tức là con số có giảm xuống chút ít so với 1.031 người trong năm trước—nhưng không thống kê bao nhiêu người là nạn nhân của buôn người vì mục đích tình dục hay buôn bán người lao động, bao nhiêu người là người lớn hay trẻ em, hoặc bao nhiêu người bị bóc lột ở Việt Nam hay ở nước ngoài. Trên cả nước, các cơ chế nhận diện nạn nhân và chuyển đến cơ sở thích hợp vẫn chưa đầy đủ. Chính phủ có quy trình chính thức để nhận diện nạn nhân nhưng không sử dụng nó một cách chủ động hoặc rộng rãi để nhận diện nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như phụ nữ bị bắt vì hành nghề mại dâm, người lao động di trú từ nước ngoài trở về, và lao động trẻ em. Chính phủ cũng không chuyển nạn nhân đến các cơ sở bảo vệ nạn nhân một cách có hệ thống do quy trình chuyển nạn nhân còn khiếm khuyết, ví dụ một số cán bộ biên phòng chưa quen thuộc với tội phạm buôn người và thiếu sự hợp tác giữa các vùng, ngoài ra một số lượng lớn nạn nhân tự nhận diện, được đưa về nước theo các đường biên giới mở không chính thức, hoặc thiếu giấy tờ tùy thân. Các cán bộ nhà nước vẫn gộp hành vi buôn người với hành vi tổ chức đưa người vượt biên hay nhập cảnh trái phép, dẫn đến cản trở việc nhận diện các nạn nhân là người tự nguyện di cư ra nước ngoài.

Năm 2015, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA) đã hỗ trợ bảo vệ nạn nhân, hồi hương và tái hòa nhập cho 650 nạn nhân buôn người, trong khi con số này năm trước là 668 người. Mặc dù các dịch vụ bảo vệ nạn nhân vẫn còn sự khác biệt giữa các địa phương, đa số nạn nhân được đào tạo nghề, chăm sóc y tế, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ nơi tạm lánh, tư vấn và trợ cấp tài chính. Các nhà chức trách không công bố bao nhiêu nạn nhân sử dụng phương thức trợ cấp tiền mặt một lần—tới 1.5 triệu đồng ($65). MOLISA tiếp tục vận hành 400 trung tâm bảo trợ xã hội thông qua chính quyền địa phương, cung cấp dịch vụ cho các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó có nạn nhân buôn người; các trung tâm này được bố trí nhân viên và nguồn lực không đồng đều và thiếu nhân lực được đào tạo thích hợp để trợ giúp nạn nhân. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam hợp tác với các NGO và với nguồn tài trợ của nước ngoài đã tiếp tục vận hành ba cơ sở tạm lánh ở các thành phố đô thị, trong đó một cơ sở dành riêng cho nạn nhân buôn người. Không có cơ sở tạm lánh dành riêng cho nạn nhân là nam giới hoặc trẻ em, mặc dù các cơ sở hiện tại cung cấp sự trợ giúp cho tất cả các nạn nhân khi cần thiết.

Việt Nam vẫn có các tùy viên lao động tại đại sứ quán ở 9 nước có số lượng lớn người lao động di trú Việt Nam theo hồ sơ; tuy nhiên, một số viên chức ngoại giao Việt Nam không được đào tạo đầy đủ để hỗ trợ nạn nhân một cách thích hợp. Trong các vụ việc hồi hương với số lượng chưa xác định, các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài đã cung cấp nhu yếu phẩm, dịch vụ vận chuyển và chăm sóc y tế cho công dân Việt Nam là nạn nhân của buôn người ra nước ngoài. Nhà nước khuyến khích các nạn nhân buôn người hỗ trợ trong các quy trình tố tụng tư pháp chống lại bọn buôn người và có một số biện pháp bảo vệ và đền bù cho họ; tuy nhiên, chưa xác định được mức độ áp dụng các biện pháp này. Pháp luật Việt Nam bảo vệ các nạn nhân không bị truy tố về những hành vi đã thực hiện do hậu quả của việc bị trở thành nạn nhân buôn người; tuy nhiên, do các cán bộ không được đào tạo thích hợp về các kỹ năng nhận diện nạn nhân, một vài cán bộ đã có thể đối xử với một số nạn nhân như với tội phạm. Các NGO báo cáo rằng nạn nhân thể hiện sự lo lắng khi trở về Việt Nam—đặc biệt là trường hợp không có giấy tờ đầy đủ–phải đối mặt với sự kỳ thị xã hội ở địa phương do họ là nạn nhân, lo sợ sự trả thù ở cộng đồng địa phương họ, và sợ bị trừng phạt vì những hành vi bất hợp pháp họ đã thực hiện do hậu quả của việc bị trở thành nạn nhân buôn người. Chính phủ không cho các nạn nhân nước ngoài các lựa chọn pháp lý thay thế cho việc rời khỏi nước mà họ phải đối mặt với sự trả thù hay khó khăn.

PHÒNG NGỪA

Chính phủ đã tăng cường các nỗ lực phòng ngừa tình trạng buôn người. Trong kỳ báo cáo này, chính phủ đã phê chuẩn kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn người trong 4 năm (2016-2020) để giải quyết tình trạng lao động cưỡng bức, cải thiện các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân, và thực thi các điều khoản sửa đổi trong Bộ luật hình sự về chống buôn người; tuy nhiên, chính phủ chưa phân bổ ngân sách cụ thể để thực hiện kế hoạch này. Chính phủ tiếp tục phát triển cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia về buôn người đã đi vào hoạt động từ năm trước. Năm 2015, các cán bộ ủng hộ các chiến dịch nâng cao nhận thức về chống buôn người bằng việc hợp tác với các cơ quan thông tấn trung ương và địa phương để thực hiện các chương trình phát thanh và truyền hình, đăng tải các bài báo, phát tờ rơi về buôn người. Chính phủ đã tổ chức các cuộc hội thảo và đối thoại cộng đồng về tình trạng dễ bị trở thành nạn nhân của buôn người lao động, tập trung vào các khu vực có nhiều hợp đồng xuất khẩu lao động. Chính phủ cũng tổ chức các buổi biểu diễn sân khấu và các sự kiện xã hội ở các tỉnh có nguy cơ cao để cảnh báo các nhóm dân cư dễ bị tổn thương về nguy cơ buôn người đối với phụ nữ kết hôn với người nước ngoài thông qua môi giới. Chính phủ đã đình chỉ hoàn toàn đối với hai công ty tuyển dụng lao động do vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động và tạm đình chỉ ba công ty tuyển dụng lao động sang Ả rập Xê út; đã tiến hành 23 cuộc điều tra hình sự đối với 27 tổ chức không có giấy phép sau khi phát hiện có các dấu hiệu buôn bán người lao động. Trong năm qua, Việt Nam đã ký biên bản ghi nhớ với 11 quốc gia đích chủ yếu và cập nhật bản thỏa thuận với Malaysia về cấm người sử dụng lao động giữ hộ chiếu của người lao động. Biểu phí và đặt cọc trước khi đi xuất khẩu lao động cho người lao động di trú củaViệt Nam—dao động từ 6.5 đến 65 triệu đồng ($585-$5,850)— có thể đã giảm được gánh nặng nợ nần của một số người lao động nếu được thực thi một cáchtriệt để; tuy nhiên, biểu phí này có thể tăng khả năng bị bắt làm việc trừ nợ của người lao động ở nước ngoài nếu bên tuyển dụng thu phí cao hơn. Chính phủ đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc giảm cầu đối với hành vi tình dục thương mại trong năm báo cáo bằng việc tiến hành kiểm tra tại các cơ sở kinh doanh phi đạo đức có tiếng về mại dâm và môi giới mại dâm. Chính phủ cũng đã đào tạo về chống buôn người cho các viên chức ngành ngoại giao.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: