Bước tới nội dung

Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển/Phụ lục IX

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

PHỤ LỤC IX. SỰ THAM GIA CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ

[sửa]

ĐIỀU 1. Việc sử dụng thuật ngữ "tổ chức quốc tế"

[sửa]

Trong Điều 305 và Phụ lục này, thuật ngữ "các tổ chức quốc tế" được hiểu là một tổ chức liên chính phủ được các quốc gia lập nên, các quốc gia này trao cho tổ chức đó thẩm quyền về các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký kết các hiệp ước về vấn đề này.

ĐIỀU 2. Việc ký kết

[sửa]

Một tổ chức quốc tế có thể ký Công ước, nếu đa số các quốc gia hội viên của tổ chức này là những bên ký kết Công ước, một tổ chức quốc tế ra một tuyên bố nói rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các quốc gia hội viên ký Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này, cũng như tính chất và phạm vi của thẩm quyền này.

ĐIỀU 3. Việc xác nhận chính thức và việc gia nhập

[sửa]

1. Một tổ chức quốc tế có thể gửi lưu chiểu một văn bản xác nhận chính thức hay gia nhập, nếu đa số các quốc gia hội viên của nó gửi hoặc đã gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay gia nhập của mình.

2. Văn bản của tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu lên cần phải có các cam kết và tuyên bố đã quy đinh ở Điều 4 và 5 của Phụ lục này.

ĐIỀU 4. Phạm vi tham gia, các quyền và nghĩa vụ

[sửa]

1. Đối với các vấn đề mà các quốc gia hội viên và là thành viên của Công ước đã giao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế thì văn bản xác nhận chính thức hoặc gia nhập do tổ chức quốc tế đó gửi lưu chiểu cần có lời cam kết chấp nhận các quyền và nghĩa vụ đã được trù định trong Công ước đối với các quốc gia.

2. Một tổ chức quốc tế là thành viên của Công ước trong phạm vi các giới hạn thẩm quyền được xác định trong các tuyên bố, thông tin hoặc thông báo nói ở Điều 5 của Phụ lục này.

3. Đối với các vấn đề đã được các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước trao thẩm quyền cho thì một tổ chức quốc tế sẽ sử dụng các quyền và làm tròn nghĩa vụ, mà lẽ ra theo Công ước là những quyền và nghĩa vụ của các quốc gia này. Các quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế không sử dụng thẩm quyền của mình mà trao cho tổ chức này.

4. Không thể có trường hợp nào mà sự tham gia của một tổ chức quốc tế lại dẫn đến một sự đại diện cao hơn sự đại diện mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước có thể đòi hỏi. Quy định này đã được áp dụng, đặc biệt là đối với các quyền ra các quyết định.

5. Việc tham gia của một tổ chức quốc tế không đem lại cho các quốc gia hội viên của tố chức đó không phải là thành viên của Công ước một quyền nào do Công ước trù định.

6. Trong trường hợp có tranh chấp giữa những nghĩa vụ thuộc bổn phận của một tổ chức quốc tế theo Công ước và những nghĩa vụ thuộc bổn phận của tổ chức này theo điều ước đã thành lập ra nó hoặc theo mọi văn bản có liên quan, thì các nghĩa vụ do Công ước quy định có giá trị cao hơn.

ĐIỀU 5. Các tuyên bố, thông báo và thông tin

[sửa]

1. Tài liệu xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế cần có một tuyên bố xác định rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này.

2. Một quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế, khi phê chuẩn hay gia nhập Công ước, hoặc khi tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia nhập, phải làm một tuyên bố xác định các vấn đề đề cập trong Công ước mà tổ chức đã được trao thẩm quyền, vào ngày muộn nhất trong hai thời điểm nói trên.

3. Các quốc gia thành viên là hội viên của một tổ chức quốc tế, thành viên của Công ước được coi như có thẩm quyền về tất cả các vấn đề thuộc phạm vi của Công ước mà các quốc gia nói trên đã không ghi một cách rõ ràng rằng, họ đã trao thẩm quyền cho tổ chức bằng một tuyên bố, thông tin hoặc thông báo làm theo đúng điều này.

4. Tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước thông báo ngay cho người lưu chiểu bất kỳ sự sửa đổi nào về việc phân chia các thẩm quyền được ghi rõ trong các tuyên bố nói ở khoản 1 và 2, kể cả những việc chuyển giao thẩm quyền mới.

5. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên của tổ chức này là thành viên của Công ước, chỉ rõ ai trong tổ chức hay trong các quốc gia hội viên này có thẩm quyền đối với một vấn đề nhất định được đặt ra. Tổ chức này và các quốc gia hội viên hữu quan thông báo tình hình này, trong một thời hạn hợp lý. Họ cũng có thể tự mình chủ động thông báo một tình hình đó.

6. Tính chất và vi phạm của những thẩm quyền được chuyển giao cần phải được xác định rõ trong các tuyên bố, thông tin và thông báo làm theo điều này.

ĐIỀU 6. Trách nhiệm

[sửa]

1. Các bên có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này có trách nhiệm về mọi thiếu sót đối với những nghĩa vụ nảy sinh từ Công ước và đối với tất cả các vi phạm khác đối với Công ước.

2. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế hoặc các quốc gia hội viên của tổ chức đó là thành viên của Công ước chỉ rõ người có trách nhiệm trong một trường hợp riêng biệt. Tổ chức và các quốc gia hội viên hữu quan cần phải thông báo tình hình này. Nếu không thực hiện điều này trong một thời gian hợp lý, hoặc nếu họ thông báo các thông tin trái ngược nhau, thì họ phải cùng nhau và liên đới chịu trách nhiệm.

ĐIỀU 7. Giải quyết các vụ tranh chấp

[sửa]

1. Khi gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia nhập của mình, hoặc vào bất kỳ thời điểm nào tiếp sau, một tổ chức quốc tế có quyền tự do lựa chọn, qua tuyên bố bằng văn bản, một hoặc nhiều phương pháp đã nêu ở Điều 287, khoản 1 điểm a, c, và để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước.

2. Phần XV được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho bất kỳ vụ tranh chấp nào giữa các thành viên của Công ước mà một hoặc nhiều thành viên đó là các tổ chức quốc tế.

3. Khi một tổ chức quốc tế và một hoặc nhiều quốc gia hội viên của tổ chức này đứng về một phía, thì coi như tổ chức đã chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp như các quốc gia này; trong trường hợp mà một trong số các quốc gia này chỉ chọn Toà án quốc tế theo Điều 287, thì tổ chức và quốc gia hội viên này coi như đã chấp nhận trọng tài theo thủ tục trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên tham gia vào vụ tranh chấp thoả thuận lựa chọn một phương pháp khác.

ĐIỀU 8. Áp dụng Phần XVII

[sửa]

Phần XVII được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho các tổ chức quốc tế, với điều kiện tuân thủ các quy định sau đây

a. Văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 303, khoản 1;
b.  i. Một tổ chức quốc tế có quyền đặc biệt để hành động theo các Điều 312 đến 315, nếu tổ chức này có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề nói trong điều sửa đổi;
ii. Khi một tổ chức quốc tế có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề trong điều sửa đổi, thì văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của tổ chức này liên quan đến điều sửa đổi nói trên được coi như văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của từng quốc gia hội viên là thành viên của Công ước trong việc áp dụng Điều 316, các khoản 1, 2 và 3;
iii. Trong tất cả các trường hợp khác, văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 316, khoản 1 và 2;
c.  i. Trong Điều 317, một tổ chức quốc tế mà trong số các hội viên của nó có một quốc gia thành viên của Công ước và tổ chức quốc tế đó vẫn tiếp tục thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của Phụ lục này, thì tổ chức quốc tế này không thể từ bỏ Công ước;
ii. Một tổ chức quốc tế phải từ bỏ Công ước, nếu trong số hội viên của nó không còn một quốc gia nào là thành viên của Công ước hoặc nếu tổ chức này đã thôi không thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của Phụ lục này. Sự từ bỏ đó có hiệu lực ngay lập tức.