Bước tới nội dung

Cổ xúy nguyên âm/Cuốn thứ nhì/II-2

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

PHÚ TẬP (Hiệp-thái)

Thế-tục phú (độc-vận)

(Truyền là Vy-sĩ Trần-văn-Nghĩa người thôn An-ninh huyện Vĩnh-thuận Hà-nội, soạn ra từ năm Minh-mệnh 14)

Ngán thay thế tục! Ngán thay thế tục!
Nước chẩy bến mê, gió hun lửa dục!
Suối liêm mấy kẻ đầm đìa;
Đường lợi đua nhau chen chúc.
Có trung hậu, cũng là trung hậu bạc; Nào đoái hoài phường khố rách áo ôm?
Chẳng nhơn nghĩa, gì hơn nhơn nghĩa tiền; Phải chiều chuộng kẻ vàng trăm, bạc chục.

Lập lờ phải trái, mụ-lão xỏ kim;[1]
Lường gạt ăn thua, văn-thần đánh mộc.[2]
Khi đắc-thế, thời đất nắm nên bụt; nghe hơi khá, xăm xăm chen gót tới: đen ngỡ đàn ruồi!
Lúc sa-cơ, thời rồng cũng như giun; xem chiều hèn, xanh xảnh rẽ tay ra: nhạt như nước ốc!
Chẳng biết ăn cây nào. rào cây nấy; thấy bở thì đào.
Chẳng biết mất của ta, ra của người; cứ mềm thì chọc.
Khó giữa chợ nào ai hỏi; chẳng mua thù, bán dữ cũng thờ-ơ.
Giàu trên non lắm kẻ tìm; không ép giấu, nài thương mà xạo xục.
Mềm lưng, uốn gối, tôi tớ đồng tiền;
Mắm miệng, ray tay, thế thần thúng thóc.
Lạ buông-thả, bán buôn chẳng quản; quen lèn đau, càng giáo giở đấu thưng.
Giàu nể-nang, giật mượn không nề; khó kéo đến lại ngặt ngòi lãi gốc.
Cạnh thiệt hơn, xem bẵng gương tàu;[3]
Mặt trơ tráo, nhẵn như bùi dục.[4]
Đến gánh nặng, xôn-xao chào-hỏi, miệng thơn-thớt ngọt như mía nướng; đuổi gà, khua cá tưng bừng!
Lại tay không, nhăn-nhó ủ-ê; mặt sì-sị nặng ngỡ đá đeo; chửi chó, mắng mèo eo óc!
So tầy chẳng sợ tiếng bon-chen;
Thứa lựa lại ghê gan hiểm hóc!
Miệng ngọt nhạt: Của anh như của chú; thương gì thương, thương chẳng có dơi!
Tiếng đãi bôi: Con chị ẵm con em; trọng gì trọng. trọng chẳng có cóc!
Đá đưa đầu lưỡi, tinh những trương hoàng;
Sấp ngửa bàn tay, rặt mầu phản-phúc.

Mới mát mặt, ngỡ khỏi điều trần-lụy; vểnh râu lên, rằng có gì, dí cò!
Đã dầy lưng, song sợ kẻ tần-phiền; bưng tai lại, rằng không lắc, lăng cốc!
Cũng khoe-khoang kẻ trượng-phu tùng;
Cũng khỏng-khảnh người quân-tử trúc.
Gả bán so từng gốc rạ; kém lưng đành cắn móng tay.
Bạn bè đọ những lá gan; cưa cạnh chẳng lìa tơ tóc.
Nào từng biết phải, biết chăng;
Muốn những vừa trao, vừa xúc.
Thấy người sang, muốn bắt quàng làm họ: thuyền đua bánh-lái cũng đua!
Làm kẻ khó, muốn đánh đọ với giàu; húng mọc tía-tô cũng mọc!
Chẳng nói nên vì nỗi tay không;
Chẳng hay đến bởi chưng đầu trọc.
Khó đành phận khó; bèo đã biết thân bèo, bèo đâu dám chơi trèo.
Ai dễ thương ai; ốc chửa nổi mình ốc, ốc sao mang được cọc?
Chốn nghĩa-nhơn nhạt-nhẽo hững-hờ;
Nơi tài-lợi mặn-mà săn-sóc.
Phường cuội đất, bán ruộng chung thiên-hạ; chỉ tay hổ, trỏ tay long.
Ả bợm vườn, buôn tiền xấu thế-gian; hợm mình vàng, khoe mình ngọc.
Vụng kiếm ăn thời chê sác như vờ;
Khéo lừa lận ấy khen khôn có nọc.
Đàn nha nhặng, đứng múa thanh gươm lưỡi; đem lại đầy: mật-ong, bột-sắn, cua-bể, tôm-he.
Lũ thầy cò, ngồi khoa ngọn giáo lông; đưa vào những: bát-bít, mâm-thau, khay-trè, ống-súc.
Trong luồn-lọt năm dạ mười vâng;
Ngoài uốn-éo ba lừa bảy lọc.
Kẻ đầu phật, rắp hòng buôn cả bụt; tu gì mà tu, tu mu!
Gã tùng sư, toan những lật cả thầy; học gì mà học, học chọc!
Ấy thế mà ngấp nghé đứng tòa-sen;
Ấy thế mà đua chen lăm áo-vóc.

Cũng có kẻ mượn quỉ-thần kiếm lễ; khua mõ tay, đuổi bà cô, ông-mãnh đùng-đùng.
Cũng có loài mượn nàng-dí lấy tiền; che quạt miệng, nói kẻ khuất, người còn xong xóc.
Lời « vô-sư bất-trách » biếng tai nghe;
Chữ « vô-vật bất-linh » mau miệng đọc.
Bói võ-vẽ và câu truyền khẩu; cũng mang hòm kiếm vặt, tuy chửa thông quẻ Chiều, quẻ Cộng[5] cũng xem.
Thuốc ngù-ngờ mấy vị nhập tâm; cũng xách đẫy chạy rông, dẫu chửa rõ con Bễ con Hiền[6] cũng bốc.
Chước sinh-nhai như thế có ra gì?
Nghề học-thuật nghĩ mình đà chín nục!
Lại còn kẻ khéo tay mờ của:[7] Hoa-tai xôi, Thanh-quế chắp, Sơn-dược củ-năn dồi.
Lại còn loài bưng mắt lấy tiền: Rồi-mỏ khéo, đấu-linh gian, sa-quay tiền-mẫu đúc.
Lấy những điều đại khái mà suy;
Giở đến sự chúng con còn ngốc.
Mừng nay gặp trời xuân hớn hở; thái-hòa chung hóa-nhật, quang-thiên.
Vâng trên cầm mối cả ngăn ngừa; thanh-giáo khắp thâm-sơn cùng-cốc.
Lo sửa mình theo nguồn sạch, dòng trong;
Mừng tiến đức thể sấm vang, gió giục.
Nhớ xưa: Qua buổi loạn-ly, trải đường thân súc.
Cầm đuốc soi cho tỏ; nết thực-thà hơn nết văn-hoa.
Ăn mắm ngắm về sau; đường ngay-thẳng hơn đường gai-góc.
Giàu đừng bắc bậc kheo-khoang;
Khó phải gia công tủi nhục.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng; tập khôn mới nên khôn.
Điều lành thời nhớ, điều dở thời quên; chửa học cũng như học.
Trâu chăn, bò giắt, vui nghiệp nông gia;
Ngựa cưỡi, dù che, nức danh lịnh-tộc.
Khó ai bằng: Mãi-Thần, Mông-Chính; biết bao nhiêu ngựa đón, xe đưa.
Giàu ai bằng: Vương-Khải, Thạch-Sùng; sao chẳng giữ tiền rêu, thóc mốc?
Anh-hùng hẳn có lúc ra tay;
Quân-tử hãy bền gan gấp khúc.
Kẻ có nhân, mười phân chẳng khó; cớ chi mà buộc cổ mèo, treo cổ chó, lẩn-thẩn lần-thần?
Người biết lo, bằng kho hay làm; cớ chi mà tham con diếc, tiếc con rô, cù-rù cúc-rúc?
Trời cho, vốn đã dành phần;
Vận đến, khi nên mấy chốc.
Chẳng thấy mua lừa, bán đảo; bốc tay sốt, đổi tay nguội, sung sướng bao ngày?
Chẳng thấy người ăn sổi, ở thì; vào cửa mạch, ra cửa tà, khá hèn thoảng lúc.
Thương người ấy là thương mình;
Làm giàu sao bằng làm phúc.
Chú khi ni, my khi khác; gọi là cú có, vọ mừng.
Ăn miếng chả, giả miếng bùi; chớ nghĩ cốc mò, cò rúc.
Phật thường độ hữu-duyên;
Thiên bất sinh vô-lộc.
Giàu vì bạn, sang vì vợ; nhất kiến như cựu-thức, dầy mỏng săn siu;
Đông có mây, tây có sao; cửu đại hơn ngoại-nhơn, rách lành đùm bọc.
Trâu buộc ghét trâu ăn sao được; ghét thì xuống sông mà kỳ.
Cá lớn nuốt cá bé được chăng; nuốt đến ngã ba thì hóc.
Tốt lỏi sao bằng xấu đều;
Ngốc dàn còn hơn khôn độc.
Ruột bỏ ra, da bọc lấy; dòi tự trong xương.
Thượng bất chính, hạ tắc loàn, dột từ trên nóc.
Miễn được áo ba manh, cơm ba bát; mặc dầu thủng-thỉnh thung-thăng.

Nào ai giàu ba họ, khó ba đời; lọ phải tròi-mòi, moi-móc.
Tham nhiều nên phải rình mò;
Tiêu ít cớ chi khó nhọc.
Chẳng biết gió chiều nào che chiều nấy; còn tại-hạ phải lạc-thiên an-mệnh, chớ ngất ngưởng tịch-cư ninh-thể mà vụ danh.[8]
Đã hay phấn giồi mặt đâu dễ giồi chơn; may đắc-thời nên trí-chúa trạch-dân, đừng ngoa ngoắt giai-cảnh hứng-tình mà tiểu-cục.[9]
Tôi nay: Tất-hộ[10] lơ-thơ; hạnh-lâm[11] ngang dọc.
Tỉnh lòng trần mấy quyển thanh-nang;[12]
Say vị đạo một bầu hoàng-cúc.[13]
Thong thả rộng xem đèn sách; gẫm cổ-nhơn đắc-thất để mà suy.
Nôm na gọi chép mấy lời; khuyên tử-đệ ngôn-hành nên kiểm-thúc.
Há rằng ở đời chê lẩn sự đời, lấy làm tự-túc.


II. — Lạc đệ tự chào phú (Độc vận)

(Thi hỏng tự cười mình) (không tên)

Khoa mục đường xưa; văn chương lối mới.
Năm mây, lời thiên-tử rõ ràng;
Bốn bể, bụng cử-nhơn tức tới.
Lều chiếu là thang võng lọng; tranh lèo giật giải có nhường ai?

Tràng thiềm[14] là cửa cân đai; cao gối mau chơn không kẻ đợi?
Công-danh gặp hội; đường thanh-vân sấn bước toan trèo.
Phú quí nức lòng; cành đan-quế giơ tay quyết vói.
Tấc gang chực vin rồng tựa phụng; mượn phấn vua, trả nợ bút nghiên xưa.
Đêm ngày chăm mài sắt nên kim; nhờ đạo thánh, đền công đèn sách lại.
Cửa hiền rộng mở: một nền Cức-viện,[15] có quả, có hoa,
Trận bút tranh đua; ba đợt Vũ-môn,[16] lẫn trê, lẫn truối.

Có một người: Mặt mũi khôi ngô; râu mày nhẵn nhụi.
Biếng học, siêng ngủ, sách vở mập mờ;
Non tập, già chơi, văn chương sốc nổi.
Đến khoa-thi, nửa sợ nửa mừng;
Tính nhơn-sự, một may một rủi.
Mừng mặt đủ buồng-cau, bánh thuốc; đồ vào trường, rất mực phong lưu.
Theo chơn nhiều đầy-tớ, học-trò, chốn tạm chọ tìm nơi rộng rãi.
Chứng hay ngủ, sửa sang sắp sẵn: Lều một vác, chiếu một ôm.
Đồ phụng thân, mang xách nặng nề: Nước đầy bầu, giầu đầy túi.
Thuốc Bách-tính, đóm diêm, điếu ống; thông mồi này, đặt mồi khác, văn được như thuốc ắt hẳn hơi-dài.
Chả ba-họ, cơm-nắm, ruốc-bông; ăn một miếng, nghĩ một câu, văn được như cơm can gì ý-nỗi[17].
Văn làm, đặc như bí, dai như đỉa; dò lều này sang lều nọ, vi nhứt vi nhì.
Sách quên, tối như hũ, mờ như đêm; nghe câu được với câu chăng, viết chầy, viết cối.
Đệ nhứt trường, làm bài tinh-nghĩa; lần theo tám vế rõ ràng.
Hai trăm chữ, điểm đủ tân-qui; tùng tiệm hai tờ ngắn ngủi.

Phú cũng chẳng ra tàu ra mán; theo anh em: Tắc-kiến, phù-kỳ.[18]
Sách gọi là có cổ có kim; đủ lề lối: Sĩ-văn, cẩn-đối.[19]
Đóng lều kín mít, nhứt định ngồi dai;
Xe sáp thẳng gang, cố tình viết tối.
Những e-ấp, chửa mang mình-ốc nổi; lại ra sự giắt tay trẻ xuống giếng, ngấp nghé làm gà.
Toan kéo-co trả nợ tổ-tôm thua; khéo dơ tuồng đơm đó cá trên cây, kiếm ăn như rái.
Lúc nộp quyển hòm đà đóng khóa; van lại-phòng tiếng nhỏ, tiếng to.
Khi ra trường trời đã quá canh; gọi đầy-tớ ấm-a, ấm-oái.
Buồng nhà chọ, lúc thở dài vuốt bụng; những mừng quyển ấy đủ là may.
Ghế cô hàng, khi vắt tréo rung đùi; lại khoe văn kỳ này cũng lợi.
Lúc hẹp dạ, bàn dầy bàn mỏng: Nhờ lượng quan-trường rộng tay bút, cuối bảng chẳng từ.
Khi cả gan, nghĩ quẩn nghĩ quanh: Họa là trong quyển có câu thần, thủ-khoa cũng phải.

Đến khi: Ghế chéo gián lọng xanh; bành voi giương ống gọi.
Số cử-nhơn xướng đã đủ lần;
Dòng niên-hiệu đọc đà đến cuối.
Thầy đồ nọ, nét mặt tế tổ ngoại;[20] áo quàng vai đi tất-tả tất-tơi
Bác tú kia, đầu gối tranh trưởng-nam;[21] nón cắp nách chạy hớt-hơ hớt-hởi.
Nào những lúc ra trường đoạn: Xêng-xang hàng phố, giầy kéo lê. quần chấm gót, dịu-dàng thay tốt bộ cử-nhơn!
Nào những khi xướng danh rồi: Lủi-thủi cửa trường, khăn bỏ giọt, áo giắt lưng, lơ-láo tưởng như hình chú-lái!

Nghĩ đến một tháng tròn phí-tổn; làm hại chưng con mễ, con kim.
Nhớ chữ ba đời trước cung-khai; lại nhục đến ông-bà, ông-vải.
Ngơ-ngác! Lúc quắp râu về chọ: Đầy-tớ lư-đừ, mụ-hàng áng-ỏi, lắng tai nghe gà gáy để tìm lui.
Buồn-tênh! Khi vác mặt về nhà: Trẻ con nhạt-nhẽo, mẹ nó thờ-ơ, vẫy đuôi thấy chó mừng càng thêm tủi.
Nghĩ cũng đi cho khỏi cáo; tiền tai mua lấy cái trò chơi.
Ai ngờ về lại hoàn mèo; mẹo lẩn liệu đường mà nói giải.
May phúc chốc! Thói kiêu chừa được hẳn; như dưa mới rầu, như cau mới héo, ngại-ngùng những thẹn với đầu râu.
Đáng kiếp thay! Mùi chám bớt từ đây; lấy nong mà đè, lấy rổ mà che, ngơ-ngáo chẳng còn ra mặt mũi.

Thôi thì thôi: Canh bạc bằng chơn; truyện buôn không lãi.
Cùng, thông cuộc-thế khéo hay sao!
Phong, sắc[22] lòng trời đừng vội hỏi.
Hỏng khoa này chờ khoa khác; thép hùng-văn đúc lại mới nên già.
Qua một sự sinh một điều; đường thế-cố trải lâu thì mới sỏi.
Số-phận chớ bàn sớm muộn; có học, có thi, có hỏng, có dọc-ngang cho phỉ chí mới cam.
Quân-ân nào hạn trước sau; còn trời, còn nước, còn non, còn vinh-hiển với thế-gian được mỏi.
Dẫu kẻ gọi ngựa, xem trâu cũng mặc; cái hay, cái dở không cùng.
Rầy ta lấy mai, với hạnh mà suy; nở trước, nở sau có hội.
Hễ nho-giả suy cho cùng-lý; trời đã hậu người tai mắt ấy, chữ: « Sinh tài hữu dụng » hẳn không lo.
Mà trượng-phu thì phải tự-cường; trời không phụ kẻ đèn sách nào, câu: « Hữu chí cánh thành » xin chớ vội.

Nay nhân: Ngồi đó cũng buồn; ruột càng thêm rối.
Trách phận đã no trách số; nôm na mượn bút làm vui.
Cười mình đâu dám cười ai; chấp chểnh mấy lời tự hối.

III. — Tổ-tôm phú (Độc vận)

Y-sĩ Trần-văn-Nghĩa

Bảy mảng trên tay; ba hàng trước mặt.
Khi thừa-nhàn, giở cuộc tụ-tam;
Chừng đồng-lạc, vào nhòng đệ-nhứt.
Hội gặp thiên-khai thái-vận; gần xa đâu là chẳng mừng ran.
Cuộc chơi thượng-thắng trí-cao; nhớn nhỏ biết điều cùng vui thật.

Thủa ấy: Giản việc thông-mang; có chiều an-dật.
Truyện bất-can, nghe cũng nhàm tai;
Buổi vô-sự, ngủ đà chán mắt.
Khách đài-các một mùi một trải: Chè sen, rượu thuốc, tiệc hứng vui vầy.
Nhà phong-lưu mọi vẻ mọi hay: Dựa gấm, chiếu hoa, thế ngồi tiêm tất.

Vậy mới: Thử biết thấp cao; xét xem khoan nhặt
Tiền mặt, đem xuất-thổ chất đầy;
Bài da, nên trang-kim tốt ngật!
Hình-thế trăm hai mươi lẻ: ăn-xuyên, ghé-bí, một quân hơn, kém phải suy lường.
Tinh-thần năm bảy hội liền, chực-rộng, ù-thông, mấy nước dọc, ngang càng chiu chắt.
Trong khi chơi cũng có kinh quyền;
Cao thế đánh mới hay trí thuật.

Đen thời: Đặt bỏ ngồi hêu; cầm bài ngủ gật.
Trôi chửa xong, đầu-cánh lại tuôn thêm;
Ăn mà tốt, tay-trên liền phỗng mất.
Gà vịt chịu không dám đánh; đảo trăm cấp, thấy đôi ông-lão, ôi liền tam-bản[23] cắn theo đuôi.
Tôm lèo chực những không ù; mở ba vòng, điều một con-yêu, nhác đã thập-thành còn thiếu cật.
Người sốt gan thấy cũng buồn cười;
Kẻ xấu nết nghĩ càng đổ ghét.

Đỏ thời: Phỗng ngỡ mưa tuôn; ù như chớp giật.
Gặp ăn tốt, lại xui vào;
Vừa chực sẵn, liền mở bật!
Bán-chi nẩy, rồi liền toàn-bạch; vén cánh bắt giải lợn béo, rằng cao, khoe một tấc đến trời.
Tam-khôi thông, vừa đủ thập-hồng; vểnh râu thách lấy gà mòn, được thế, nói mấy lời dậy đất.
Vang lừng kẻ đỏ nói chua-cham;
Phẳng lặng làng đen ngồi đắng ngắt.

Kìa xem: Bao kẻ chơi chằng; quen nghề kiếm vặt.
Gọi tên là bạc, toan những càn-khôn;
Bưng mắt lấy tiền, biết đâu giáp ất.
Nhạt nước-ốc trò chơi vô vị: Tam-cúc, đố-mười, đấu-linh, bảy-kiệu, thấy đâu là vẻ thanh-cao.
Ngang càng cua lối ở bất tình: Sa-quay, chẵn-lẻ, rồi-mỏ, ba-que, hết thẩy những tuồng thô-suất,
Đem mấy nghề lươn-lẹo so xem;
Sao bằng thú tôm-già ăn đứt.

Tuy vậy: Vui chớ loang-toàng; chơi đừng ngoa ngoắt,
Chán thời thôi, há đến say mê;
Thua phải trả, nào từng chi chắt.
Thấp mà đỏ dẫu được chừng bát-vạn; e tình xử-nghĩa chẳng bền dai.
Cao mà đen thời ra dạng cửu-văn; nữa cuộc giao-tài thêm bứt-rứt.
Chi bằng phải khoảng vui chơi;
Chớ để đến điều rầy rật.

Làng ta nay: Tính sẵn tri-năng; học gồm văn chất.
Nghiệp nho-gia sách vở thuộc lầu;
Nghề tài-tử văn chương trong vắt.
Độ phỏng sáu đồng dưỡng-thọ; thủ-đàm[24] nguyên những kẻ thực-thà.
Chừng chơi vài trống đào-tình;[25] diện hậu[26] sẵn mấy thằng nhỏ-nhoắt.
Gọi là mượn thú mua vui. Há lấy tụ-tam làm ý tất.

IV. — Lắm mối tối nằm không phú (thuận áp)

(Hạn vần: Ông tơ độc làm chi)

Lênh đênh lá thắm; bối rối chỉ hồng.
Chăn chung nửa mảnh; tơ vẩn trăm vòng.
Bức-bối đương cơn nắng hạ;
Lạnh-lùng thay thủa đêm đông.
Ngày liú-lo thước gọi vườn-đào; tưng bừng sứ điệp.
Tối khắc-khoái cuốc kêu dặm liễu; ấm-á tin ong.
Ấy chẳng qua: Hương lửa ba sinh; lẻ-loi đành tại phận.
Tóc tơ một mối; chắp nối mặc tay ông.

Có một người: Má đào hớn hở; mày liễu phất phơ
Giá thuyền-quyên chất để nhà vàng; phong tư dễ mấy?
Phận bồ-liễu dịu dàng vẻ ngọc; cách điệu cũng ưa.
Rõ ràng quốc-sắc thiên-hương; hoa cười ngọc nói.
Rộn rã văn-nhơn, tài-tử; mối đón, thư đưa.
Tin nhắn, tin bó; tin đợi, tin chờ.
Mấy bức tờ tin nhạn xa đưa: kìa thơ Tống-Ngọc!
Một phím đàn cầu-hoàng dạo gửi: nọ ngón Tương-Như!
Thung-thăng con én trước sân; một hai cánh-thiếp.
Phảng-phất chim hồng trên án; năm bảy lá thư.
Nhà xuân, huyên khuyên bảo trăm chiều: lấy ai thì lấy.
Thân bồ liễu dở dang lắm nỗi; chưa vẫn hoàn chưa.
Nào ai hẹn ngọc thề vàng; phòng không vò võ!
Nào kẻ nguyền non chỉ bể; trăng bạc trơ trơ!
Buồng loan vắng-vẻ một mình; muốn chôn bà nguyệt.
Gối phụng lẻ loi chiếc bóng; muốn rấp ông .
Bắc thang gọi chị Hằng-Nga; hỏi xe duyên làm sao lẩn-thẩn?
Chắp cánh tìm chàng Từ-Thức; hỏi vì ai nên nỗi ngẩn-ngơ?

Cho nên: Ngao-ngán trăm chiều; ngổn ngang lắm lúc.
Trông bóng mà căm với bóng; mơ-màng giấc điệp năm canh.
Soi gương mà thẹn với gương; bối rối ruột tằm chín khúc.
Muốn lấy kẻ văn-nhơn nhờ tiếng; thời không người tri-kỷ, mong con bạch-nhạn[27] lại khơi chừng.

Rắp đem cây cù-mộc[28] nương mình; chỉ e giọng Hà-đông,[29] liệu kiếp phù-sinh là mấy chốc!
Ngấp-nghé những tuồng quân-tử; tính trẻ còn tham.
Bâng-khuâng nào khách Tri-âm; trăng già sao độc!

Thôi thời thôi: Dựa lưng tường bắc; hóng gió nồm nam.
Bởi má-hồng lắm lúc gian truân: há rằng sinh lỗi.
Vì phận bạc cho nên đến nỗi; dám trách ai làm.
Tại xấu số phải nằm không thời chịu;
Có kém ai mà ở vậy cho cam.

Thơ rằng:

Dở dang duyên phận chẳng ra gì,
Khéo khéo trời xanh độc địa chi?
Tối đến thở-than cùng nguyệt-tỉ,
Ngày thời năn-nỉ với phong-di.
Muốn treo cầu Thước cho ngay lại,
Để đợi chàng Ngưu tiện lối đi.
Trêu ghẹo hồng-nhan chi lắm tá?
Xuân-xanh thấm-thoắt dễ qua thì.

V. — Nữ-tử hiếu sĩ từ nông phú (Phóng vận)

Ngọc còn đợi giá, vàng chẳng lộn than.
Chốn cung-cấm thực là nghiêm mật;
Sự gió trăng chi dám lan can.
Đội ơn bác mẹ sinh thành; bể yêu-giấu lại càng trải truốt.
Nghĩ sự vợ chồng duyên kiếp; dạ ngổn-ngang nên phải trình bàn:

Tôi nay: Hổ chút phận hèn; mừng sinh cửa cả.
Tiết xuân vừa thủa trăng tròn;
Vườn cảnh đương thì hoa nở.
Sách có chữ: « Khuê-môn bất-xuất »;[30] đường nghĩa-phương dạy bảo dám sai lời.
Lễ ghi câu: « Túc-dạ vô-vi »;[31] việc nữ-tắc sớm khuya đành để dạ.
Sự duyên này dám tỏ nước non;
Nông nỗi nọ biết đâu nhạn cá.
Rộn-rã mấy văn-nhơn tài-tử; tin ong sứ điệp, chửa từng khi trả mận gieo đào.
Mơ-màng cân quốc-sắc thiên-hương; gối phụng chăn loan, còn đợi khách đưa thư ném quả.

Những ước: Vui miền Khổng, Mạnh; đẹp phận Châu, Trần.
Duyên kết kẻ gối Ôn, màn Đỗng[32];
Mối xe nên chỉ Tấn, tơ Tần.
Đấng anh-hùng gặp khách thuyền-quyên, mặc sức kẻ xôi kinh nấu sử.
Người thục-nữ sánh chàng quân-tử; cam lòng khi sửa túi nâng khăn.
Há có phải tham bùi xẻ ngọt;
Phó mặc ai nẩy mực cầm cân.
Vả bấy nay quả-nhỡn tiền-tài; ngươi Thạch[33] nọ đã từng đấu phú.
Nào mấy kẻ trần trung vật-sắc: chàng Trần[34] kia có lẽ trường bần.
Tưởng thế-sự dám so hơn thiệt;
Ắt thiên-duyên còn đợi xoay vần.
Đường liễu duyên đưa; cung trăng khách quyến.
Ấy vì ai tin nhạn dẽ đưa?
Bỗng thấy kẻ nhà nông tìm đến.
Người giắt mối, tin còn rìu-rặt; lân-la vừa lữa-lữa, quen-quen.
Kẻ đưa lời, tình tỏ vân-vi; dan-díu khéo vui-vui thẹn-thẹn.

Run rủi chi phấn lại pha son? Man mác nhẽ thuyền chưa đỗ bến.
Lễ vấn-tính phong-phong mở-mở; mở lại phong, chửa thấu rõ nguồn cơn.
Đường thông-môi nợ-nợ duyên-duyên; duyên hay nợ, bởi vì ai xui khiến?

Cho nên nỗi: Hoa kia ủ mặt, liễu nọ trau mày.
Con tạo-hóa trêu ngươi quay quắt. Mối cương-thường trách kẻ thày lay.
Rừng nho, bể thánh có thiếu chi? mà nỡ để hồng ngâm cho chuột vọc.
Bà nguyệt, ông tơ sao lẫn mấy? mà hoài đem bột lọc để Ngâu vầy.
Tủi phận xui nên duyên kiếp ấy. Vì ai nên nỗi nước non này?
Chốn Tước-bình[35] đã thấu mấy lần? rặt rìu nơi lan-thất lan-phòng, há có phải hồng-nhan bạc phận.
Cầu Ô-thước[36] khiểm chi một dải? cách trở thủa hà-đông hà-bắc, sao chẳng cho bạch-diện[37] về tay.
Đã đành phận mười hai bến nước. Chẳng tham nơi năm bảy trâu cày.

Nghĩ rằng: Trái phận khôn ưa, cho duyên thế vậy.
Thề non nguyền bể hãy ghi lời; ăn bắc nằm nam chi học thói.
Duyên chàng Trịnh có phen gặp-gỡ; đá vàng mong kết nghĩa Thục-Vân[38].
Cửa họ Tô mặc khách ra vào: hương lửa dễ soi lòng Tiểu-Muội[38].
Mặc cha mẹ định liệu dám sai lời; nọ chú bác tiếng tăm ngao ngán nỗi.
Kẻ xui-giục tìm nơi trao truốt; song tôi nghĩ của đời người thế, giàu thấy đâu Đình-trưởng thủa mang vàng.
Người mỉa-mai những tiếng nọ kia; song tôi nghĩ nghiên ruộng bút cày, khó ai phụ Mãi-Thần khi gánh củi.

Đã đành canh-cánh ở bên lòng; há có dửng-dưng mà không nói.

Vậy phải: Niềm riêng giãi tỏ, lòng thực kể tường.
Sự đấy đây gẫm xem nhường đuốc; việc phải chăng lấy đấy làm gương.
Giàu thú quê, chơn lấm tay bùn; duyên chẳng đẹp dễ ép dầu, ép mỡ.
Khó hàn-sĩ, tai-hiền mắt-thánh; phận đã ưa chẳng cân nghĩa, cân vàng.
Chốn đất bằng một tiếng sấm vang; cửa Mông-Chính ngựa xe đủng-đỉnh.
Trong cửa Vũ ba từng cá nhảy; nhà Lưu-Bình võng dá nghênh ngang.
Thế mới biết nông nhì mà sĩ nhứt; gặp thời ra của có lại quan sang.

VI. — Gái nhỡ thì phú

(Phóng vận)

Nửa đêm thức giấc dậy, mà tiếc cho con người ta rằng: Trăng tà xế bóng, nước giọt thâu canh.
Ngẩn ngơ nhẽ! Dây tình cắt-cứa. Buồn tênh thay! Cái số lênh-đênh.
Đêm thanh-nhàn, tựa gối gẫm lòng son; tuyết ủ, sương che ngao-ngán phận!
Ngày vắng vẻ, ngắm gương soi má phấn; mai gầy, liễu yếu thở than tình!

Nhớ xưa: Răng nhưng nhức đen, tóc rà rà chảy.
Khăn luợt chảy, rẽ đầu ngôi trắng xóa; xinh gớm! xinh ghê!
Yếm lương tàu, in trước ngực đỏ loè; lịch sao! lịch vậy!
Cửa cấm hồng đưa tía dạo; quần chơn, áo chít mỉa-mai chiều.
Lầu hồng phấn đánh gương soi; lược giắt, trâm cài trao truốt mãi.
Áo the trắng, dây lưng điều bay bướm; dịu-dàng thay nên giá hồng-nhan.

Bộ nhẫn vàng, hoa tai bạc bảnh bao; đằm thắm nhẽ ra chiều thanh-quí.
Chẳng ngọc ngà nhưng cũng gái thanh tân; bạn đào-lý há không phường cát-sĩ?

Những mong: Nhân duyên đáng phận, tài sắc cho cân.
Tiết xuân vừa độ, vườn hạnh gặp tuần.
Xôn-xao mùi huệ bén mùi lan; phải lứa đôi, cũng là duyên Tần, Tấn.
Rìu-rặt tiếng cầm chen tiếng sắt; vẹn ái ân, cho đẹp phận Châu, Trần.
Tốt duyên ra may vớ được anh-hùng; cũng thỏa lúc che màn rủ trướng.
Xấu phận nữa gặp phải chàng hàn-sĩ; cũng đành khi sửa túi nâng khăn.

Ai ngờ rằng: Mặt liễu ủ-ê, mày hoa ái ngại.
Bởi vì ai ngăn cấm đường duyên? Cho nên nỗi dở dang phận gái.
Buồn bã nhẽ! Trăng thâu bóng lọt, đêm năm canh, sáu khắc những mơ-màng!
Rầu rĩ thay! Nhị rữa hoa tàn; xuân một khắc, nghìn vàng khôn đổi lại,
Trách ông nguyệt thực là bất-trị! sao cầm dây mà giữ mãi khăng-khăng?
Giận chị Hằng đáo để vô-chừng! không chắp mối để làm chi mãi-mãi?
Kìa bắc-lý ngựa xe sum họp; mối tình duyên, khen kẻ khéo dặt-dìu.
Nọ đông-tường ong bướm xôn-xao; đường lai vãng, rộn người đưa mối lái.
Người xui giục: Đứa kia nhà phú túc, ruộng cũng có, mà trâu bò cũng có; song mà duyên chẳng ưa, phận chẳng đẹp, mối tơ vương khôn lẽ ép lòng nhau.
Kẻ mối manh: Thằng ấy tính chuyên cần, gánh cũng nên, mà cày cuốc cũng nên; song những tuồng vô dạng, đứa vô duyên, bia miệng thế có đâu nên phận cải.

Tuy rằng rủi, may là phận cả; dẫu cho kén chọn khỏi trời ru?
Kìa Phan, Trần so le đà mấy độ; đến mười năm trâm quạt mới sum-vầy.
Nọ Kim, Kiều ghi tạc chắc mười mươi; chợt một bước lửa hương nên cát cứ.
Tưởng má hồng mà ngao-ngán những vì duyên; đành phận bạc chỉ phàn nàn về cái số.
Không có lẽ đưa vào nơi thảo-dã; vàng lẫn thau, chi lụy chú nông-phu.
Phỏng bây giờ đưa đến cửa công-hầu; kim khắc mộc, lại e người đố-phụ.[39]
Trời đất nhẻ! Trăm năm đà mấy chốc; nông nỗi bởi vì đâu?
Chị em ơi! Hai mươi mấy tuổi rồi; tình duyên ai có thấu?
Những nghĩ tài tình trong làng nước; ngờ đâu lúng túng mấy năm chầy.
Nhân khi chè chén đủ anh em; vậy cũng thở than vài vận phú.

VII. — Mẹ ơi! con muốn lấy chồng phú

Hạn vận: « Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao? »

Trình mẹ có hay, nghĩ con không dại.
Phải kén tấm chồng, mới yên phận gái.
Đẹp lòng kia gặp gỡ là nên; thuận ý nọ lứa đôi cũng phải.
Mẹ suy bụng mẹ: sao yên gia-thất mới đành.
Con nghĩ lòng con: cũng muốn cơ đồ được nổi.

Tưởng con nay: Gặp khi sen ngó, đương thủa đào .
Kể bậc phong-lưu; yếm thắm dải đào chi tha-thướt.
Cũng thì trang điểm; môi son má phấn chi nhởn-nhơ.
In mầu bồ-liễu chi xuân; đêm ngày gìn giữ.
Hé cửa đỗng-đào chi nguyệt; năm tháng đợi chờ.
Bởi ai chểnh mảng? nên kẻ hẫng hờ.
Tin én đưa thoi; thấp thoáng bóng câu chi ruổi.
Khúc hoàng lọt tiếng; bâng khuâng hồn bướm chi mơ.

Chỉn e điều voi-cái[40] chi cười; thiệt công mà dại.
Những gìn tiếng chó-con chi trách; thấy của liền vơ.
Thưa con nghĩ thế, xin mẹ nghe ra
Cùng đôi chúng bạn, cùng một lứa chà.
Người sao có đã? mình vẫn không ?
Chắc thanh-tĩnh, tu đà nên phật; dẫu chính-chuyên, thác cũng ra ma.
Sao kia còn có bà Ngâu; sông Ngân đợi bắc cầu qua bến.
Trăng nọ vẫn nuôi chú Cuội; cánh mây khép kín cửa trong nhà.
Xem vật-loại cũng ở khuôn trời đất; gẫm truyện-đời mà để ngắm người ta
Có hơi biết mùi đời chi hương phấn. Lại càng nồng sắc nước chi nguyệt hoa
Mừng thủơ gặp thì; tơ liễu chi chừng đôi-tám.
Sợ khi quá lứa; quả mai chi rụng bảy-ba.
Dẫu hèn, dẫu sang; may có kẻ yêu chi phận gái.
Ép dầu, ép mỡ; xưa kia ai cấm chi duyên bà?
Xin mẹ bằng lòng, cho con mừng dạ.
Muốn cho gái hiền, lấy được rể khá.
Những mong là sửa túi nâng khăn. Nào thấy có gieo cầu ném quả
Trách ông Tơ độc địa làm chi? Uẩy bà Nguyệt trêu ngươi lắm tá!
Hẹn mười hẹn chín mấy mặt thấy đâu. Ngày một ngày hai; những lòng rắp đã.
Nhớ sông Hán, rong chơi họp mặt; ngắm xem bạn gái, vẻ vang chi rồng đã có mây
Tưởng bến Tần, vui thú giang tay; trông thấy chị em, sực nức chi lan dường bén xạ.
Nghĩ ăn chẳng ngon, nằm chẳng ngủ; đêm những ngẫm-ngùi!
Nên lược biếng chải, gương biếng soi; ngày càng buồn-bã!
Lòng bác mẹ mong, trăng tròn hoa nở; nỗi u-tình biết tỏ với ai hay?

Tình chị em yêu, áo xẻ cơm nhường; của vưu-vật[41] có lẽ đâu người đỡ?
Ngao-ngán nỗi! long-đanh chi phản; xót buộc tay, dám ngỏ người coi.
Sung-sướng thay! đầy thóc chi bồ; biết no bụng, nào thương kẻ lỡ.

Nên con muốn: Bằng chị, bằng em, có đôi, có lứa.
Lẽ chịu đâu ở mả chi mèo-lành; tính cũng muốn húc rào chi dê-sữa.
Chớ ẻo-oẹ bà già chi lên mặt; những là kén cá chọn canh.
Để dở-dang con trẻ chi ngang lòng; thôi lại già lừa hóa ngựa.
Không trách kẻ nương-dâu chi đứng; nghĩ như kẻ ấy lại thêm buồn!
Cũng thấy ai búi-giứa chi ngồi; có bận ai đâu mà lại ngứa?
Mẹ chớ nghe mười voi không bát sáo; chờ lúc gối quì tay lượm, lâu ngày tính khó chịu sao!
Con dại nghĩ trăm lợn cũng một lòng; e khi lửa bén rơm gần, một giờ dễ hay giữ chửa?

Vẫn biết: Giai khôn trăm nết, gái dại bảy nghề.
Xuân tâm chợt động, xuân sự chửa hề.
Vẫn gối phụng chăn loan chi chờ đợi, nào tin ong sứ điệp chi đi về.
Đã hay đưa mận trả đào; cớ sao kẻ dài môi chi giề bĩu?
Dẫu có nụ cà hoa mướp; khéo những người trõ-miệng chi gớm ghê!
Thôi mẹ đừng cấm chợ ngăn sông; sá quản người đời chi mai-mỉa.
Để con liệu nhổ sào qua bến; tha hồ miệng thế chi cười chê.

Phương chi: Trời đã định người có thì; mę cũng mong con được sớm.
Hễ lấy đừng chê, chê đừng lấy; khỏi mang già kén chi cười.
Sao nên chẳng gặp, gặp chẳng nên; lại phải miệng đời chi tởm.

Đã lắm lúc bực mình chi trê-đẻ; vì đường kinh-kỷ lại khuy.
Cũng nhiều phen sạn mặt chi đá-trơ; không lẽ quyền-nghi chút tạm.
Phỏng như trước tơ-tơ chi con gái; thoảng trông, người cũng đã yêu.
Ngộ theo sau xồng-xộc chi cái già; nhác thấy, ai là chẳng gớm.
Thôi thì đẹp duyên thì lấy; nào hay đổi chác chi cỏ rau.
Hẳn là phải kiếp là theo; sá quản tầm thường chi tấm cám.

Vậy có thơ rằng:

Nhân duyên trời chửa định nơi nao,
Nông nỗi con nay, mẹ tính sao?
Con muốn sớm chồng, con lại sớm,
Kẻo người lấy hết chổng mông gào!

Mẹ già nghe nói, khuyên con ngọt ngào:
Hễ nhà con gái, lắm kẻ ra vào.
Biết đâu là duyên ưa lá thắm; để mong cho phận đẹp má đào.
Vội chi mà vội, bao giờ thì bao.
Cũng mặc ai chỉ Tấn tơ Tần; cứ giữ mình vàng giá ngọc.
Cho đáng kẻ chồng loan vợ phụng; lọ là chào khách bán rao.
Há lo đâu có ế chi chồng; giỗ muộn càng nhiều quả chắc.
Cũng nên nghĩ đương xuân chi gái; ngọc lành phải đợi giá cao.

VIII. — Giới đổ-bác phú (Độc vận)

Gớm thay cờ bạc! Gớm thay cờ bạc!
Chả ớt mà cay, như chuối mà chát.
Bỏ bả nhau bằng quân bài; đánh cạm nhau bằng đĩa bát.
Có không, không có, như truyện chiêm bao; khôn dại, dại khôn, theo nhau mấy nhát.
No cơm nhân lúc rồi nghề; quẩng mỡ bày trò đổ bác:
Một trăm hai mươi quân chằn chặn; ba hàng ngang-dọc đảo-điên.

Bốn đồng mười sáu chữ rành-rành; hai mặt âm-dương xô-xát.
Trước chơi sau thật; mon men dần nên truyện ăn thua.
Vào nhỏ ra to: cay cúi mãi ra lòng bạc-ác.
Được lúc hòn son giắt khố, ù thông thập-hồng bạch-định; chờ độc lên chi nẩy đùng đùng.
Đương khi đầu rắn giắt lưng, nhớ rành cặp-lệch ba-bay; theo lối trúng khuôn rền tran trát.
Trước mặt vơ đống tiền sù sụ; lửng diều mặc sức ba-hoa.
Trong lưng găm túi bạc lè lè; béo mỡ tha hồ phân phát.
Của ngon vật lạ, đem đến như mưa. Bạc vụn tiền rời, tung hê ngỡ rác.
Những chú cao-lâu lê-la giề đến; xúm quanh mời công-đạo bi-bô.
Các cô hàng-sáo vi-véo rủ về; tán mảnh gạ nhơn-tình kia khác.
Chắc hẳn dỡ nhà về thổi: tưởng lăm-lăm những bụng ăn người.
Biết đâu hết đụn đi xin; chơi mãi-mãi có khi bỏ xác.
Đến lúc họa-lai thần-ám; bài xoay quanh bỏ chực, bỏ ù.
Phải khi vận-bĩ quỉ-trêu; bạc đánh đuổi càng thua càng khát.
Xóa ván này bày ván khác; đen lại hoàn đen.
Đổi phần nọ bỏ phần kia; nát cũng vẫn nát.
Chửa đánh xuống đã ghê những mất; ngực thì-thùm như trống đổ hồi.
Mong gỡ ra lại buộc thêm vào; mặt hăm-hở như đồ phải tát.
Quá tay nên nỗi nợ-nần; nóng mắt tìm đường gỡ-gạc.
Vay cào, vay cấu, lãi mấy cũng ừ; đắt non, đắt già, của ai cũng choạc.
Búi tóc chặt, gật chầy gật cối; tát cũng đành, dầu đem giam-trói cũng đành
Trơ mặt dày, đeo mẹt đeo mo; rủa càng mát, dầu bắt lột-đìa càng mát.
Hàng-sáo gặp phải tay nanh-độc; giở đầu-bò, vỗ tuột cũng không xong.
Nặc-nô giây phải lũ côn quang; sắn móng-lợn, chạy bừa mà chẳng thóat.
Khi mới phải bán cửa, bán nhà; khi mới phải gán đồ, gán đạc.

Khi mới lủi về xó nhà, khi mới chúi nằm xó gác.
Lo đến nợ bồn-chồn không ngủ; đặt xuống nằm thời lại giật mình.
Nghĩ đến tiền ngao-ngán quên ăn; nuốt vào cổ hình như mắc ngạt.
Vợ con cũng mất lòng thương; bè bạn cũng ra tình nhạt.
Mất danh mất diện; quá chơi mà nên kẻ lăng nhăng.
Hại thân hại đời, trót dại hóa ra người rầy-rạc.
Thế mới biết, ngồi vào đám bạc; già cũng chẳng thương gì trẻ, thằng cũng chẳng nể gì ông.
Thế mới hay, lâm đến đồng tiền; con cũng chẳng nể gì cha, cháu cũng chẳng tha gì bác.
Cao hạ bằng đẳng, láo-nháo lào-nhào. Cốt-nhục tương-tàn, xác-xơ, xơ-xác.
Đọc đến chữ: « Tham-tài nhi-tử »; kẻ máu-mê đã trót dại thì chừa.
Nhớ đến câu: « Lâm-cục giả-mê »; người tai mắt phải giữ gìn cho rát.

IX. — Thầy đồ dạy học phú (Phóng vận)

Bốn cóng kê giường, ba chồng cặp sách.
Cơm trắng canh ngon, giường cao chiếu sạch.
Chữ thánh phù, câu thiên tích.
Chạu thau rửa mặt, tầm váo tầm vênh; điếu sứ long đờm, cóc ca cóc cách.
Thần Cao-kỵ[42] xôi gà tùy thích; ông đã nên ông.
Bụt Nam-sang[43] oản tẻ chẳng từ; khách thời mặc khách.

Nguyên phù thầy đồ giã: Râu ria nhẵn nhụi, mặt mũi ngông nghênh.
Văn pha nguyên mặc, sách học quan-hành.
Chạy gạo chạy tiền, thất điên bát đảo; làm gà làm vịt, tứ đốm tam khoanh.

Số Tử-vi Tuần Tiệt đứng đầu; qua vòng vận hạn.
Đất văn học thần đồng phụ nhĩ; mới bước công danh.

Nhiên nhi:[44] Bụng lính tính quan, khôn nhà dại chợ,
Chơi đã hoang toàng, nết hay sờm sỡ.
Một tháng lương non, cầm gan thóc nợ.
Vách ông Khổng còn hòm khoa-đẩu[45]; mở một vài con.
Ngõ thầy Nhan treo túi đan-bầu[46]; bảo năm ba đứa.
Nón sơn úp bụng, đi liểu đi liều; bút thủy gài tai, sướng chưa sướng chửa?
Nghĩ sểnh nhà ra thất nghiệp; cũng bật nên cười.
E ngồi mát ăn bát đầy, có nuôi không hử?
Bằng tôi nhà chủ, xin rước thầy ngồi.
Giầu nước đoạn, rượu chè rồi.
Bàn tiền đốn, tính cơm nuôi.

Chủ rằng: Đạo thánh là đạo rộng; sư rằng: Tùy ông còn tùy tôi.
Mặt chữ điền vác hẳn lên trên; nết đâu có nết!
Chiếu hàm trượng[47] tót ngay vào giữa; ngôi đã nên ngôi!
Mỹ hĩ tai[48]! Ông đồ ông lề, học trò học choẹt.
Nghịch bằng ma, đòn như choét.
Bộ sử đầu, pho Dương-tiết.
Hỏi mẹo lục-kỳ,[49] ra bài tam-kiệt.[50]
Chữ tứ-thể nhận thừa bốn lối; nét cứng như đanh.
Sách thập-khoa nhớ đủ mười bài; văn giơ những thép.
Mô tê răng rứa, giã giả chi hồ.
Hoặc cầm roi nhi quát tháo; hoặc xem sách nhi gật gù.

Sừ tiên-ban, sứ tiên cung[51]; bắt khoan bắt nhặt
Tiền riệc tặc, hậu riệc tặc[52]; tiếng nhỏ tiếng to.
Thầy dốt canh khôn, ngay quay ra cóc; tiền tầy rượu cắn, hiền quá hóa ngu.
Nước chè tàu tuôn một vai hơi; mặt cán tàn chi hướng.
Thuốc lá tỉnh hút năm ba điếu; đầu tán tọng chi rù.
Nhĩ-kỳ:[53] Xem chữ xem văn, chấm bài chấm đối.
Lên mặt thầy, sổ những băm bầu; bưng mắt chủ, khuyên như lòi tói.
Hạ bút xuống tô tô điểm điểm; mực chát đen xì.
Giở bài ra đọc đọc ngâm ngâm; son hòa đỏ trói.
Gạo nguyệt-đốn lại nài nhứt-đệ;[54] bàn mỏng bàn dầy.
Tiền hương-khoa chực bổ đồng-môn; thu chầy thu cối.
Đánh trống đi qua cửa sấm; đem chuông sang đấm nước người.
Cặt như con khỷ, lười tựa đười ươi.
Rượu túy cung-thang; chặc ba hoa chi miệng.
Văn gàn bát-sách; rung chữ ngũ chi đùi.
Xin rước thánh-nhơn về[55]; đem kinh truyện ngó vài thiên sách cổ.
Ước gì nhà chủ bận, hoãn tháng ngày cho rộng lúc đi chơi.

Gĩ nhi:[56] Khăn chít đầu rìu, quần xoay lá toạ.
Vuốt bụng nằm mèo, nhe răng nói quạ.
Cổ cò ngóng gái, phụng thỉnh như lai; tay vịt vẽ bùa, phó lô thiêu hóa.
Cầm quyển sách ngủ gà ngủ vịt; đầu canh hai đã chực đi nằm.
Bước ra ngoài mắt trước mắt sau; cỗ bàn nhứt toan ngồi đánh cả.

Cũng có lúc: Việc làng việc họ, về cửa về nhà.
Bàn dang đảm[57] tính phù chà.
Sư kèo-cò thêm năm tiền nữa; chủ kỳ-kèo đưa mấy đồng ra.
Ruột tượng thắt lưng, nguyên đồ rận đói; khăn tay giắt rốn, dặt giống cau già.
Vợ con mừng thầy cháu đã về; đầu nhà quẹt hét.
Cha mẹ ước con ta hầu tới; trước mặt nhện sa.
Cực nỗi người mặt nước chơn mây; miệng canh chểnh choảng.
Kể truyện chủ đầu cua tai ếch; chén rượu kề cà.

X. — Gào chồng phú

(Phóng vận)

Dì nho trướng gấm, cô ả phòng the.
Bến liễu thuyền tình, cắm sào đợi nước; lầu hồng mối chỉ, kén khách trao tơ.
Đương lúc đào non; đủng-đỉnh hoa chưa nở vội.
Tới khi mai rụng; kêu ca xuân đã qua đi.
Há phải hồng-nhan bạc-phận; vậy nên thân gái nhỡ thì.

Kêu rằng: Trời cao mấy trượng? Bể rộng mấy trùng?
Cùng thì má phấn, cũng bạn lưng ong.
Người sao đã có? Tôi vẫn còn không?
Chống gối lên, năm gật bảy hò; ghen ghét nhau chi nguyệt-lão?

Cúi mặt xuống, trăm than nghìn thở; phũ-phàng chi mấy hóa-công?

Hỡi ôi! Cái phận long-đong, mối duyên bối rối.
Năm canh luống ngẩn-ngơ lòng; chín khúc càng ngao-ngán nỗi,
Cũng biết cây cao nương bóng; chẳng qua muôn sự tại trời.
Nhưng mà măng mọc có thì; quá mất một thì cũng tội.

Luống những: Thu cuối sang đông, xuân qua lại hạ.
Dịp phách oanh quen, cung đàn dế lạ.
Tưởng lúc đèn khêu ngọn hạnh; dặt-dìu canh cửi khuây nỗi nhớ-nhung;
Những khi trăng dãi mầu hoa; xấp-xỉ bướm ong, xui lòng buồn-bã.
Chẳng tu mà tĩnh, chẳng cuội mà nhàn
Trách chị em chưng không đợi; hiềm bác mẹ chưng vụng toan.
Trăng khuyết lại tròn; má hồng nọ tròn chăng hay khuyết?
Hoa tàn lại nở; xuân xanh kia nở nữa hay tàn?

Cũng mong: Ngòi Ngự đề thơ, bến Hà đua tiếng.
Khỏi điều nước chẩy qua sân; may được mưa sa xuống giếng.
Hội mừng rồng dấy: sum-vầy gối ấp chi đầu tay.
Ai mượn trâu cày; nín-bặt chị em chi môi miệng

Chẳng ngờ: Chị ả nhỡ thì, gặp anh nho sác.
Màn mây cửa gió, bốn bể là nhà; kinh thánh truyện hiền, năm mây chửa bước.
Nghìn dặm xui nên gặp gỡ; hương duyên đun với lửa tình.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn; trâm nghĩa sánh cùng quạt ước.
Đàn cầm-sắt lựa dây hòa-hợp; chỉ hồng lá thắm, đôi lứa duyên ưa.
Đám công danh giật giải khôi-nguyên; bia đá bảng vàng, nghìn năm ghi tạc.
Tưởng bấy giờ sướng kiếp thênh-thênh; bõ bấy lâu miệng gào san-sát.

XI. — Xem cờ để mãnh phú

(Hạn vần: « để ra, mãnh ơi! »

Xưa có cô con gái tên là Huệ, phải lòng thầy đồ, thường khi sang chơi trường học; một ngày kia, cô Huệ sang chơi, thầy đồ đi vắng, thấy lũ học trò đang đánh cờ, cô ta ngồi lại ngó chơi, vô ý.... Tới khi thầy về, học trò đọc sách, cứ khúc khích cười; thầy giận, toan đem đánh tuốt cả học trò. Sau có tên học trò nhỏ nói thực đầu đuôi là vì cô Huệ, thầy mới tha cho, mà làm bài phú này, cũng là một lối phú cổ-thể, cứ nói tự sự.

Tiên-sanh đường bệ, đa-sĩ tể-tể[58]
Nhi khúc-khúc nhiên, nhi khích-khích nhiên, nhứt nhược phó[59] tiên-sanh chi quách kệ.

Tiên-sanh giận lắm, hỏi rằng: Làm sao? Đệ-tử đứng lên, thưa thầy con kể: Cái Huệ nó để...!
Nhân ngày hôm qua, thầy đi vắng nhà.
Đương mùa hè chi vô sự; viên[60] bàn cờ hề giở ra.

Bất ý: Chị ta, ngồi lê, ngồi la.
Bèn giương mép rải, bèn cửng mào gà.
Người chẳng ra người, ma chẳng ra ma.
Nhi bành bạnh ra! nhi chành chạnh ra! Ức ông mãnh ra?[61] Ức ông kệnh ra? Ức hổ mang chi cổ bạnh ra?
Toại sử[62]: Tướng muốn thượng lên, pháo tranh nước cạnh.
Tốt hữu ý ư nhập cung; sĩ manh tình ư nhứt ghểnh.
Thế mà không cười, có họa ông thánh!
Tiên-sanh nghe rồi, nãi mỉm kỳ môi.
Nãi vỗ kỳ đùi, nãi quẳng kỳ roi.
Thán tức ngôn viết[63]: ối trời ơi! ối đất ơi! Chết nỗi, hôm qua thế mà không có tôi!

  1. Có bản: Ra tuồng kẻ Bưởi cuốc vào lòng;
  2. — : Học thói võ thần lừa miếng mộc.
  3. — : Dạ hẹp hòi nào có lượng hưu hưu;
  4. — : Mặt trơ tráo tựa như loài nhung nhúc.
  5. Quẻ Kiền 乾 nhầm đọc là chiều 朝; quẻ Tốn 巽 nhầm là cộng 共 là thầy bói nhầm.
  6. Chữ Thận 腎 nhầm là hiền 賢; chữ Tỳ 脾 nhầm là bễ 髀, đó là thầy thuốc dốt.
  7. Kéo tay mờ của, có bản là mạng cầu vá sáp.
  8. Nghĩa là còn ẩn ở dưới, phải nên vui yên mệnh trời, chớ ngất ngưởng ta là ở rảnh yên mình mà lấy tiếng.
  9. Nghĩa là khi đắc thời phải nên ra giúp vua cho dân nhờ, không nên ngoa ngoắt hứng tình vui chơi cảnh đẹp, thế là tiểu-cục.
  10. Là nhà tranh.
  11. Xưa có thầy thuốc hễ chữa khỏi người nào, thì người ấy phải đem cây hạnh đến giồng ở vườn, sau thành rừng hạnh.
  12. Là sách thuốc.
  13. Dưới câu này lại còn có câu: « Hú hí vỗ tay ôm cháu, véo má hôn ngang. Nghêu ngao nằm võng dạy con, vắt chơn thẳng dọc. » Nhưng lại trùng vần dọc.
  14. Là chốn trường thi.
  15. Trường thi rào gai xung quanh, gọi là Cức viện.
  16. Vũ-môn là cửa cá vượt hóa rồng, ví như trường thi.
  17. Đoạn văn nào còn thiếu ý, thì phê hai chữ « ý nỗi » nghĩa là chê còn đói ý.
  18. Là chữ lề lối phú.
  19. Là chữ lề lối văn sách.
  20. Cháu rể tế tổ-ngoại nét mặt nhâng-nháo.
  21. Tranh ngôi trưởng-nam khi vào tế đầu gối run cằm cặp.
  22. Phong là phong-lưu, sắc là túng-kiết.
  23. Là ba ván.
  24. Là cách đánh tổ-tôm cầm tay để bàn truyện với nhau.
  25. Là thỏa lòng vui thú.
  26. Là hầu trước mặt.
  27. Là con nhạn trắng đưa tin.
  28. Cây cù-mộc ví như vợ cả. Kinh Thi có thơ Cù-mộc là khen bà Hậu-phi ở với nàng hầu tử tế.
  29. Là giọng ghen người vợ cả, giống như con sư-tử gầm ở Hà-đông.
  30. Nghĩa là không ra khỏi chốn buồng the.
  31. Nghĩa là sớm tối không dám trái lễ phép
  32. Ôn, Đổng là hai người học trò hay chữ.
  33. Là Thạch-Sùng.
  34. Là Trần-Bình.
  35. Là bình phong vẽ con công, để thi bắn kén rể.
  36. Chim Ô-thước làm cầu trên Ngân-hà để cho Ngưu, Nữ gặp nhau.
  37. Là anh học trò mặt trắng.
  38. a ă Là hai người con gái kén chồng.
  39. Là người vợ cả ghen.
  40. Lồng như voi cái sổ tàu.
  41. Là của quí, người đẹp giai.
  42. Thành-hoàng làng Cao-kỵ được một cách riêng, dầu gặp ngày cấm sát sinh, cũng được mổ thịt để tế.
  43. Huyện Nam-sang ít cấy lúa nếp, phải cúng bụt bằng oản tẻ.
  44. Là nhưng mà.
  45. Là lối chữ cổ viết như con nong-nóc.
  46. Đan là dá cơm, bầu là bầu nước, là cảnh ông Nhan-tử nghèo.
  47. Chiếu thầy ngồi cách học trò một trượng.
  48. Nghĩa là: Tốt vậy thay!
  49. Là sáu kỳ kế của Trần-Bình.
  50. Là Lương, Tín, Hà, ba người nhân-kiệt nhà Hán.
  51. Tục truyền: Xưa có ông Trạng dốt, chỉ thuộc tiếng nói lái. sang sứ Tàu, vua Tàu bắt vào dạy hoàng-thái-tử. Ông trạng trông thấy có bàn thờ cúng tiên-sư, bày đồ bình-hương, bình-hoa, và bức tranh cô tiên thổi sáo; mới ra câu văn: « Hường-binh, hòa-binh, sừ tiên ban, sứ tiên cung chi sảo thối, kỳ cố hà rư? »

    Thái-tử không làm được, trạng đánh mãi thái-tử, vua Tàu tưởng là trạng giỏi, ra văn khó, không biết đó là tiếng nói lái, phải cho trạng về. Đấy là chế thầy đồ cũng dốt như vậy.

  52. Cổ văn có bài: Tiền xích-bích phú, hậu xích-bích phú, thầy đồ dốt đọc nhầm chữ xích () ra chữ riệc () chữ phú () ra chữ tặc ().
  53. Nghĩa là ấy đó, là hai chữ lề lối tiếp sang vần phú khác, dể đẫn xuống những việc ở dưới.
  54. Gạo cung lương tháng, thầy lại đòi nuôi thêm một anh học trò nữa.
  55. Là cho học trò về, rồi thầy nằm nghỉ.
  56. Nghĩa là đã mà.
  57. Là tiền gánh hòm, gánh tủ.
  58. Tể-tể nghĩa là nhiều học trò.
  59. Nghĩa là hình như mặc kệ thầy.
  60. Viên nghĩa là bèn.
  61. Ức nghĩa là hay là; ra nghĩa là vậy rư, là lời còn hồ nghi.
  62. Nghĩa là bèn khiến.
  63. Là than thở nói rằng.