Ca trù thể cách/4

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
TRÔNG CHỒNG THƠ

LỤC CHUYỂN NGÂM.

Gương tà nguyệt xế đã ngoài song,
Hắc hẻo trông sao quá rất trông.
Thương bấy thiết tha lòng héo liễu,
Nhớ thêm vàng vỏ má phai hồng.
Vương sầu xiết kể chi nguôi bắc,
Ỷ tuoi thêm buồn-bả chạnh đông.
Chàng hởi biết ai chăng thảm bực,
Loan hàng viết thảo tả tình chung.


THƠ VỌNG PHU

Đá tạc hình ai đã mấy đông,
Con thơ tay ẳm luống trông chồng.
Mưa ngâu tuôn lụy nhằm ngàn bắc,
Gió nữ xui sầu dợn biển đông.
Rạng đất rạng trời thêm rạng tiết.
Cùng non cùng nước dễ cùng lòng.
Khá khuyên má phấn trăm thu dưới,
Lấy đó làm gương sửa tánh lung.


THU VI NGÂM.

Há để thương cô gái có chồng,
Thương vì một nỗi chạnh phòng không.
Thương con bướm bạc mưa xơ xác,
Thương nụ bầu non tuyết lạnh lùng.
Thương vợ chồng âu duyên chích mát,
Thương cha mẹ nhện số long đong.
Thấy người thanh lịch mà thương vậy,
Há dể thương cô gái có chồng.


Non nước tan tành hệ bỡi đâu,
Một vầng mây bạc ở Ngao-châu.
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tĩnh cang thường một nhắm thâu.
Trạm bắc ngày chờ tin nhạn vắng,
Thành nam đêm quạnh tiếng quiên sầu.
Đinh ninh chín chữ lòng con tạc,
Trời đất từ đây bặt gió thu.


Đứa mắc ghẻ ruồi đứa lác voi,
Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi.
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc.
Đứa nịnh hàm râu mấy sợi còi.
Trên đỉnh có nhà còn lợp lọng,
Dưới chơn không ngựa lại giơ roi.
Hèn chi chúng nói bội là bạc,
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.


Thảo đâu dám ví kẻ cày voi,
Muối xát lòng ai nấy mặn mòi.
Giúp Hán còn nhiều trương cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi.
Thúc tình nhớ mẹ khôn nâng chén,
Rơi lụy cùng vua biếng nặng roi.
Chẳng đặng khôn Lưu làm đại Ngụy,
Thân nầy gác để ngoại dòng thoi


GÀNH MÓM THƠ.

Tượng mắng non xanh tác chẳng già,
Cớ sao gành móm lại gio ra.
Chòm rong lộp xộp râu Bành-tổ,
Chơn đá gio gie nớu Tử-nha.
Nước súc lêu lao cơn sống dợn,
Khăn lau cọt quẹt thức mây qua.
Thẻ be muốn hỏi xuân thu mấy,
Rằng thuở thiên khai đã có ta.


TRINH NỮ THƠ.

Bấy lâu còn giữ tấm lòng son,
Duyên trái xin đừng ép uổng con.
Hát bắc đờn nam khôn gắng nhịp,
Nồi tròn vung méo dễ in khuôn.
Thà đam lá rụng trôi dòng biếc,
Nỡ để hoa thơm nhúng chậu bùn.
Trách bấy ông tơ xe chặt mối,
Ôm lòng cam chịu nước cùng non.


VỢ ĐƯA CHỒNG ĐI THI THƠ.

Những thuở bên đông bóng mới lò,
Đưa chồng xuống đó mãng lần mò.
Ngàn trùng cữa võ xin chàng gắng,
Muôn mối nhà đơn mặc thiếp lo.
Trướng phụng vui vầy chưa toại mấy,
Sân rồng rạng tiết mới thơm cho.
Một mai dầu đặng vinh nhành quế,
Tấm mẳng xin thương thuở học trò.


Mười năm đèn sách nhọc công dòm,
Thi đổ ba trường tiếng nức om.
Phỉ chí nam nhi con trẻ choảnh,
Đền ơn cúc dục mẹ già còm.
Trên đầu lọng lợp màu xanh lét,
Dưới võng áo ban sắc đỏ lòm.
Nhờ chút ơn vua về bái tổ,
Mầng lòng lên ngựa nhảy lom xom.


CỐI XAY THƠ.|

Công danh trên thế đố ai tày,
Ra gạo cũng nhờ cái cối xay.
Một trận chi sờn cơn gió bụi,
Trăm vòng nào nại sức long lay.
Mòn răng hết dạ đền ơn chúa,
Trặc họng khen ai khéo đặt bày.
Bao quản thớt trên mòn thớt dưới,
Hềm vì còn giặc phải ra tay.


ĂN GOI CÁ SANH CAM THƠ.

Giăng tay bắt đặng cá con con,
Ăn gỏi sanh cầm quá rất ngon.
Chanh chua hòa với rau mơ núi,
Mắm nục lộn cùng chuối chát non.
Vật vả trên tay tươi rói rói,
Đưa ngay vào miệng cắn giòn giòn.
Mầy đã sa cơ về kiếp ấy,
Tao đưa một chén rổi linh hồn.


CHỆC LAY CON MÊN THƠ.

Gẫm lại ông tơ khéo đá đoan,
Ai xui chồng Chệt vợ Cao-Man.
Hia thì đễ chóp răng như phấn,
Nàng vận chăn vằn mặt tợ than.
Hia gọi ăn cơm rằng xực phạn,
Nàng kêu uống nước phát tức lang.
Mai sau có phước sanh con cháu,
Hai nước giao hòa thuộc cháo chan.


NGHE EM BẬU CÓ CHỒNG THƠ.

Trăm năm dốc kết ngỡi tơ hồng,
Phưởng phất rày nghe bậu có chồng.
Chát chát lỗ tai gần muốn điếc,
Rưng rưng nước mắt chảy khi không.
Mai về non lảnh mai tìm bạn,
Cá ở sông tương cá hóa rồng.
Thục nữ làm chi đều bạc ác,
Thuyền quyên lại phụ khách anh hùng.


TÔN PHU NHƠN QUI HÁN THƠ.

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tùng,
Ngàn năm rỡ tiết gái Giang-đông.
Ở Ngô bịn rịn vừng mây bạc,
Về Thục trau tria phận má hồng.
Son phấn nỡ đem giày gió bụi,
Đá vàng đâu đe thẹn non sông.
Ai về nhắn vối ngươi Công-cẩn,
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.


HỰU HỌA NGUYÊN VẬN.

Cài trâm sửa áo vẹn câu tùng,
Mặt giã trời chiều biệt cõi đông,
Khói tỏa vừng Ngô xen thức bạc,
Duyên xe về Thục đượm màu hồng.
Đôi bên tơ tóc bền trời đất,
Một gánh can thường nặng núi sông.
Anh hỡi Tôn-quyền anh có biết,
Tôi ngay thờ chúa gái thờ chồng.


ĐƯA ĐÒ THƠ.

Trời biển linh đinh một chiếc đò,
Đố ai thấu đặng tấm lòng vò.
Buồm loan thong thả khi trưa trật,
Bải hạc nghêu ngao lúc tối mò.
Chi sợ miệng lằn lời uốn éo.
Nào lo lưỡi mối giọng quanh co.
Đâu vui cho bằng miền trăng gió,
Ba bảy nhành mai mặc kiến bò.


HỰU THỂ.

Trời biển linh đinh thú rất ưa,
Giang tân rước khách sớm cùng trưa.
Thuyền loan nào quản cơn xuôi ngược,
Chèo quế bao nài mái nhặt thưa.
Phỉ dạ thuyền quyên khi đợi rước,
Mặc lòng quân tử lúc mời đưa.
Trăm năm còn tạc cây đa cũ,
Bến liễu xin tình đoái khách xưa.


MẸ GÀ CON VỊT THƠ.

Lời tục xưa nay ví cũng thường,
Mẹ gà con vịt thiết tình thương;
Nâng niu cũng tưởng nên da vóc,
Khôn lớn nào ngờ khác thịt xương;
Cắc cớ bỡi ai xui tráo chác,
Nhọc nhằn nên phải gắng toan đương;
Một mai dầu nhẫn nên lông kiến,
Chớ phụ thân nầy chịu nắng sương.


THƠ HỘT GẠ0.

Giã từ đồng ruộng dạo xa chơi,
Lớn bé ai mà chẳng cậy hơi.
Cổi giáp vàng kia phơi chốn chốn,
Bày da ngọc nọ rạng nơi nơi.
Ông cha giúp nước đà ghe thuở,
Dòng giống nuôi dân biết mấy đời,
Vì thế liều mình cơn nước lửa,
Ai mà có biết hỡi ai ơi!


THƠ MIỂNG SÀNH.

Rủi tay một chốc hóa tan tành,
Đến thế còn kêu tiếng sỏi sành,
Sắc lẻm dường gươm người gớm mặt,
Rán sao ra mở chúng kiêng tình.
Ghe phen ló mũi nằm trong cát,
Nhiều thuở làm chông đứng mặt thành.
Chuông trống nhà ai đâu dám sánh,
Gỏ chơi cũng có tiếng canh canh.


THƠ CÂY BAP.

Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Thương vì một chút chúng dân thơ.
Nghe oai thích lịch ôm con đỏ,
Nương lịnh nam phong phất ngọn cờ.
Miễn đặng an nhà thêm lợi nước,
Chi nài dãi nắng với dầm mưa.
Biển hồ lai láng tâm kình lặng,
Giải giáp một khi cả thảy nhờ.


THƠ CÁ THIA THIA.

Đồng loại sao ngươi chẳng ngở ngàn,
Hay là một lứa phải nông gan.
Trương vi đồ sộ vài ngang nước,
Đâu miệng hơn thua nửa tấc nhang.
Ướm sức giây lâu đà tróc vảy,
Nín hơi trót buổi lại phùng mang.
Ra tài cữa võ chưa nên mặt,
Cắc cớ khen cho khéo nhộn nhàng.


THƠ TRĂNG NON

Khen ai cắc cớ bấm trời tây;
Tỉnh thức Hằng-nga khéo vẽ mày.
Nửa phiến linh đinh trôi mặt nước;
Một vành lững đửng dán chơn mây.
Cá ngờ câu thả tơi bời lội;
Chim ngờ cung trương sập sận bay.
Miệng thế chớ chê rằng chích-mác;
Một mai tròn trịa bốn phương hay.


THƠ ĐI GIA ĐI TU

Chày kình dộng tỉnh giấc Vu san;
Mái tóc qui y nửa trắng vàng.
Đài kính thử soi màu phấn lợt;
Cữa Không đành gởi chút xuân tàn.
Tĩnh hồn hoa liễu vài câu kệ;
Nương bóng tang du một chữ nhàn.
Ngảnh mặt lầu xanh xem những trẻ;
Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan.


THƠ CÂY VÔNG

Uổng sanh trong thế mấy thu đông;
Vông lớn làm chi vông hỡi vông.
Rường xoi cột trổ chưa nên mặt;
Dạu mỏng rào thưa phải dụng lòng.
Da thịt càng già càng lộp xộp;
Ruột gan chẳng có, có gai không.
Mới biết cây nào sanh giống ấy;
Qua xuân bớn tớn cũng đơm bông.


THƠ CON TRÂU

Mài sừng cho lắm cũng là trâu;
Gẫm giống chi chi thật lớn đầu.
Trong bụng lam nham vài lá sách;
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy;
Làm lễ Bôi chuông giớn giác sầu.
Nghé ngọ một đời quen nghé ngọ;
Năm dây đờn gãy biết nghe đâu.


THƠ CON VOI.

Giống chi đồ sộ đứng kia cà:
Chẳng phải là voi cá một gà.
Dầu lớn lưng tôm kê bốn dựng;
Voi dài miệng lợn chỏi hai ngà.
Đã từng vì nghĩa cày non Lịch,
Sao khéo đặt đều giậm mả nhà.
Quê quán ngươi xưa nơi Tượng quận,
Sang chơi Miến-điện với Xiêm la.


THƠ CON RẬN

Mặt mũi mần-ri cũng có râu;
Cả đời chẳng biệt dụng vào đâu.
Xơn xao trên mão chưa nên mặt;
Lục đục trong chăn cứ giục đầu.
Khuấy ngứa gầy dân chi khác mọt;
Ra công béo nước chẳng bằng trâu.
Khéo sinh trong thế chi cho nhộn,
Có có không không cũng chẳng cầu.