Bước tới nội dung

Chu trung ngẫu thành (III)

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Chu trung ngẫu thành - 舟中偶成
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

佩劍攜書膽氣粗
海山萬里片帆孤
途中日月三冬過
客裡親朋一字無
異境每驚新歲月
扁舟重憶舊江湖
四方壯志平生有
此去寧辭我僕痡

Bội kiếm huề thư đởm khí thô ;
Hải sơn vạn lý phiến phàm cô.
Đồ trung nhật nguyệt tam đông quá ;
Khách lý thân bằng nhất tự vô.
Dị cảnh mỗi kinh tân tuế nguyệt ;
Biển chu trùng ức cựu giang hồ[1].
Tứ phương ráng chí bình sinh hữu ;
Thử khứ ninh từ ngã bộc bô[2].

Đeo gươm mang sách, khí hung hăng ;
Muôn dặm qua biển núi một tấm buồm cô.
Trên đường đi ngày tháng đã quá ba đông rồi ;
Trong cảnh khách thân bằng không nhận được một chữ.
Ở cảnh lạ mỗi lần năm tháng mới là sợ ;
Ngồi thuyền con nhớ lại cảnh giang hồ xưa.
Chí mạnh ra bốn phương bình sinh vốn có ;
Chuyến đi này há có thể chối từ: « đầy tớ ta mệt rồi »!

   




Chú thích

  1. Cựu giang hồ: nghĩa là cảnh giang hồ xưa
  2. Ngã bộc bô: là chữ Kinh Thi bài « Quyển nhĩ » nghĩa là « đầy tớ tôi mệt rồi ». Ý câu này cho chúng ta thấy chuyến đi này là đi bắt buộc, vì nghĩa vụ phải đi chứ không phải tự ý đi chơi