Dụ tứ phương cần vương đối Tây Sơn hịch (1788) củaLê Huy Dao
Dụ tứ phương cần vương đối Tây Sơn hịch (谕四方勤王对西山檄) nghĩa là Hịch dụ bốn phương giúp vua chống Tây Sơn là bài hịch bằng chữ Nôm của Dao Trì bá Lê Huy Dao, viết mùa xuân năm Mậu Thân (1788) thay mặt vua Chiêu Thống kêu gọi người dân đánh lại Tây Sơn. Bài hịch này chép trong tập Lữ Trung Ngâm (旅中吟), mã số R.1481 tại Thư viện quốc gia Việt Nam.
29959Dụ tứ phương cần vương đối Tây Sơn hịch1788Lê Huy Dao
Ngã xung nhân nhược viết[2]:
Đầu tam cương[3] là đấng quân thần, chia cao thấp, cũng cảm đàn ong kiến
Chân thiên hạ ấy loài di địch[4], đảo dưới trên, chi dong thói muông dê
Lòng hằng[5] dù sẵn lẽ trời
Nghĩa cả phải lo thù nước
Nhà nước ta: Lam sơn dấy tích Hoàng tổ ra uy
Trải Ngô[6] bình dựng nghiệp bá vương, gồm mười ba đạo[7] mở mang, bốn biển dẹp yên, khôn lượng đức
Từ diệt Mạc nảy quyền soái phủ, lẻ đôi trăm năm rủ chắp[8], muôn phương chẳng oán, ấy là ân
Dưới trời đâu cũng tông Chu
Ngoài cõi cớ chi hoạt Hạ
Áng phong đích[9] mũi hông máu thấp, gươm Tào, vạt dải nước không trôi
Chốn kim thang[10] khói ngút biếc tuôn, lửa Hạng, chín tầng mây cũng thảm
Tại cức con đà man mác[11]
Sào lâm cái yến ủ ê[12]
Vậy hứa hôn đành tiên chí muốn chi, chỉn luỵ tàn dân nên cắt ái[13]
Mà thông sứ há miểu cung[14] chớ được, cũng toan yên nước phải liên hoà[15]
Đảo điên nài[16] thói ấy vốn thường
Trọc loạn[17] kể phen này là mấy
Lần cửa không cung êm khoá, giả tôn phù cho đắt chước chỉnh cư[18]
Chiếc xa viễn tái khu tìm, trá nghênh lập để mua lòng thuỷ phụ[19]
Đường cố dạo hồng mao[20] đỏ rực
Miền Thần Kinh lân giới[21] tanh om
An nhương dù chẩng Di Ngô, lễ nhạc y quan dời thói cũ
Tảo diệt ví không Phiêu Kị, sơn hà thành quách khác nền xưa Hồ sồ phúc Tấn[22] khá làm gương Nhung Yết loạn Đường còn để dấu
Vả Hoan Ái[23] thôi lương lại lính, quấy đã tàn trong ấy hai châu
Bằng kinh đô biến hạ làm di[24], hại ắt kịp ngoài này các trấn
Bước nước chênh vênh thế ấy
Lòng người lo liệu làm sao
Trẻ thơ nên nỗi trở hồng, dường bởi nhất nhân hữu tội
Tan tác gặp cơn phân loạn, khá thương vạn tính hà cô[25]
Lìa thành tị địch cũng là quyền[26]
Họp nước phục thù đà sẵn thế
Ngoài phiên khổn hịch lông[27] sao ruổi, lấy sóc phương[28] làm chốn thu binh
Dưới hành dinh cờ nghĩa gió bay lay, trỏ Nhị thuỷ[29] đính ngày phản bái
Tổ đức tông công đành rành đó
Trung thần nghĩa sĩ lạc loài đâu
Kẻ đỉnh chung từng nặng quân ân, thuỷ lôi ấy kinh luân đại hội[30]
Miền điền tỉnh cũng nhờ đế lực, cần bộc là thi báo hằng tình[31]
Ví hay cộng tế gian nan[32]
Thế ắt dữ đồng hưu khánh[33]
Chú thích
▲Cài đặt font Nom Na Tong Light của Vietnamese Nôm Preservation Foundation (Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm Việt Nam) để hiển thị đầy đủ các chữ.
▲Ngô - thời Lê người ta dùng từ Ngô để chỉ người Trung Quốc.
▲Mười ba đạo - Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Trung Đô phủ.