E-xơ-ra/2

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
E-xơ-ra của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 2

Dựng sổ dân Giu-đa trở về Giu-đê với Xô-rô-ba-bên

21 Trong con-cháu các dân tỉnh Giu-đa bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt dẫn qua Ba-by-lôn, nầy những người bị đày đó trở lên Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người về trong thành mình, 2 có Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-la-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mít-bạt, Biết-vai, Rê-hum và Ba-a-na dẫn-dắt. Vậy, nầy là sổ dựng những người nam của dân Y-sơ-ra-ên.

3 Họ Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai; 4 họ Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai; 5 họ A-rách, bảy trăm bảy mươi lăm; 6 họ Pha-hát-Mô-áp, con-cháu của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười hai; 7 họ Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 8 họ Xát-tu, chín trăm bốn mươi lăm; 9 họ Xác-cai, bảy trăm sáu mươi; 10 họ Ba-ni, sáu trăm bốn mươi hai; 11 họ Bê-bai, sáu trăm hai mươi ba; 12 họ A-gát, một ngàn hai trăm hai mươi hai; 13 họ A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi sáu; 14 họ Biết-vai, hai ngàn năm mươi sáu; 15 họ A-đin, bốn trăm năm mươi bốn; 16 họ A-te, về gia-quyến Ê-xê-chia, chín mươi tám; 17 họ Bết-sai, ba trăm hai mươi ba; 18 họ Giô-ra, một trăm mười hai; 19 họ Ha-sum, hai trăm hai mươi ba; 20 họ Ghi-ba, chín mươi lăm; 21 họ Bết-lê-hem, một trăm hai mươi ba; 22 người Nê-tô-pha, năm mươi sáu; 23 người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám; 24 người Ách-ma-vết, bốn mươi hai; 25 người Ki-ri-át-A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba; 26 người Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt; 27 người Mích-ma, một trăm hai mươi hai; 28 người Bê-tên và A-hi, hai trăm hai mươi ba; 29 họ Nê-bô, năm mươi hai; 30 họ Mác-bi một trăm năm mươi sáu; 31 họ Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 32 họ Ha-rim, ba trăm hai mươi; 33 họ Lô-đơ, họ Ha-đít, và họ Ô-nô, bảy trăm hai mươi lăm; 34 người Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm; 35 họ Sê-na, ba ngàn sáu trăm ba mươi.

36 Những thầy tế-lễ: họ Giê-đa-gia, thuộc về nhà Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba; 37 họ Y-mê, một ngàn năm mươi hai; 38 họ Pha-su-rơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy; 39 họ Ha-rim, một ngàn mười bảy.

40 Các người Lê-vi: họ Giê-sua và Cát-mi-ên, con-cháu của Hô-đa-via, bảy mươi bốn.

41 Những người ca-hát: họ A-sáp, một trăm hai mươi tám.

42 Các con-cháu kẻ giữ cửa: con-cháu Sa-lum, con-cháu A-te, con-cháu Tanh-môn, con-cháu A-cúp, con-cháu Ha-ti-ta, con-cháu Sô-bai, cọng hết thảy là một trăm ba mươi chín người.

43 Kẻ phục-dịch trong đền-thờ[1]: Con-cháu Xi-ha, con-cháu Ha-su-pha, con-cháu Ta-ba-ốt, 44 con-cháu Kê-rốt, con-cháu Sia-ha, con-cháu Ba-đôn, 45 con-cháu Lê-ba-na, con-cháu Ha-ga-ba, con-cháu A-cúp, 46 con-cháu Ha-gáp, con-cháu Sam-lai, con-cháu Ha-nan, 47 con-cháu Ghi-đên, con-cháu Ga-cha, con-cháu Rê-a-gia, 48 con-cháu Rê-xin, con-cháu Nê-cô-đa, con-cháu Ga-xam, 49 con-cháu U-xa, con-cháu Pha-sê-a, con-cháu Bê-sai, 50 con-cháu A-sê-na, con-cháu Mê-u-nim, con-cháu Nê-phu-sim, 51 con-cháu Bác-búc, con-cháu Ha-cu-pha, con-cháu Ha-rua, 52 con-cháu Ba-lút, con-cháu Mê-hi-đa, con-cháu Hạt-sa, 53 con-cháu Bạt-cô, con-cháu Si-sê-ra, con-cháu Tha-mác, 54 con-cháu Nê-xia, con-cháu Ha-ti-pha.

55 Con-cháu của các tôi-tớ Sa-lô-môn: con-cháu Sô-tai, con-cháu Sô-phê-rết, con-cháu Phê-ru-đa, 56 con-cháu Gia-a-la, con-cháu Đạt-côn, con-cháu Ghi-đên, 57 con-cháu Sê-pha-ti-a, con-cháu Hát-tinh, con-cháu Bô-kê-rết-Ha-xê-ba-im, con-cháu A-mi.

58 Tổng cọng những người phục-dịch trong đền-thờ và các con-cháu của những tôi-tớ Sa-lô-môn, đều là ba trăm chín mươi hai người.

59 Nầy là những người ở Tên-Mê-la. Tên-Hạt-sa, Kê-rúp-A-đan, và Y-mê trở lên, không thế nói rõ gia-tộc và phổ-hệ mình, đặng chỉ rằng mình thuộc về dòng-dõi Y-sơ-ra-ên hay chăng: 60 con-cháu Đê-la-gia, con-cháu Tô-bi-gia, con-cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm năm mươi hai người. 61 Trong dòng-dõi thầy tế-lễ: con-cháu Ha-ba-gia, con-cháu Ha-cốt, con-cháu Bạt-xi-lai. Người ấy có cưới một con gái của Bạt-xi-lai ở Ga-la-át, nên được gọi bằng tên ấy. 62 Các người ấy tìm gia-phổ mình, nhưng chẳng tìm đặng; nên người ta kể họ là ô-uế, và họ bị truất khỏi chức tế-lễ. 63 Quan tổng-đốc cấm chúng ăn những vật chí-thánh cho đến chừng nào có thầy tế-lễ cậy U-rim và Thu-mim[2] mà cầu-hỏi Đức Chúa Trời.

64 Cả hội-chúng đếm được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 chẳng kể những tôi trai tớ gái; số chúng nó là bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy. Cũng có hai trăm người nam nữ ca-hát theo cùng họ nữa. 66 Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc-đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

68 Có nhiều trưởng-tộc, khi đã đến đền-thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, thì dâng những của-lễ lạc-ý cho nhà Đức Chúa Trời, để xây-cất nó lại chỗ cũ. 69 Tùy theo sức mình, chúng dâng vào kho của cuộc xây-cất đền sáu mươi mốt ngàn đa-riếc vàng, năm ngàn min bạc, và một trăm bộ áo thầy tế-lễ.

70 Vậy, những thầy tế-lễ, người Lê-vi, mấy người dân, người ca-hát, kẻ giữ cửa, những người phục-dịch trong đền-thờ, và cả dân Y-sơ-ra-ên, thảy đều ở trong bổn-thành mình.

  1. Nguyên bổn rằng: Nê-thi-nim: Nghĩa là kẻ phục-dịch trong đền-thờ.
  2. « Mà cầu-hỏi Đức Chúa Trời » không thấy trong nguyên-bổn, chỉ thêm đây đặng làm rõ nghĩa.