E-xơ-ra/4

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
E-xơ-ra của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 4

Các thù-nghịch dân Giu-đa ngăn-cản việc xây-cất đền-thờ

41 Khi các thù-nghịch của Giu-đa và Bên-gia-min hay rằng những người đã bị bắt làm phu-tù được về cất đền-thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, 2 bèn đi đến Xô-rô-ba-bên và các trưởng-tộc mà nói rằng: Chúng tôi muốn đồng xây-cất với các ngươi, vì chúng tôi tìm-cầu Đức Chúa Trời của anh em, cũng như anh em, và chúng tôi đã tế-lễ cho Ngài từ đời Ê-sa-Ha-đôn, vua A-si-ri, đem chúng tôi lên đây, 3 Nhưng Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, và các trưởng-tộc khác của Y-sơ-ra-ên, đáp với chúng rằng: Các ngươi chẳng được phần chung với chúng ta đặng cất một đền-thờ cho Đức Chúa Trời của chúng ta; song chúng ta, chỉ một mình chúng ta, sẽ cất một đền cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, y như Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, đã truyền bảo chúng ta.

4 Bấy giờ dân của xứ xui cho dân Giu-đa ngã lòng nhát-sợ, trong khi họ xây-cất; 5 và trọn đời Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, cho đến đời Đa-ri-út, vua Phe-rơ-sơ, trị-vì, chúng đem hối-lộ cho những mưu-sĩ chống với dân Giu-đa, đặng phá việc họ lo-toan.

6 Nhằm đời A-suê-ru, vừa bắt đầu lên ngôi, thì chúng làm một cái trạng cáo dân Giu-đa và dân-cư Giê-ru-sa-lem. 7 Qua đời Ạt-ta-xét-xe, thì Bít-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên và đồng-liêu của chúng, viết biển tấu lên Ạt-ta-xét-xe, vua Phe-rơ-sơ. Cái biểu ấy viết bằng chữ A-ram và dịch ra tiếng A-ram.

8 Lại Rê-hum, tể-tướng, và Sim-sai, thơ-ký, đồng viết biểu nghịch cùng Giê-ru-sa-lem, tấu lên vua Ạt-ta-xét-xe như vầy:

9 Rê-hum, tể-tướng, Sim-sai, thơ-ký, và các đồng-liêu của họ, tức là người Đi-nít, người A-phạt-sa-thít, người Tạt-bê-lít, người A-phạt-sít, người Ạt-kê-vít, người Ba-by-lôn, người Su-san, người Đê-ha-vít, người Ê-lam, 10 và dân-sự khác mà Ô-náp-ba cao-trọng và vang-hiển đã đem qua, khiến ở trong thành Sa-ma-ri và trong các miền khác bên phía nầy sông.[1]

11 « Nầy là bổn sao lại của bức biểu chúng gởi tấu vua Ạt-ta-xét-xe.

Các tôi-tớ vua ở bên phía nầy sông, kính-tấu vua Ạt-ta-xét-xe.

12 Tâu vua hay rõ-ràng những người Giu-đa đã từ nơi vua lên đến chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem, đương lập lại thành phản-nghịch hung-ác ấy; chúng nó đã xây lại vách-thành và tu-bổ các nền cho xong rồi. 13 Vậy, nguyện vua biết rõ-ràng ví bằng thành nầy được cất lại, và vách-tường nó được xây lên, tất dân nó sẽ chẳng tiến-cống, nộp-thuế, hoặc đóng tiền mãi-lộ, rồi sau chắc sẽ gây họa cho vua. 14 Vả, vì chúng tôi ăn muối của đền vua, và chẳng nỡ chứng-kiến việc gây thiệt-hại cho vua như vậy, nên chúng tôi sai sứ-giả đến tâu rõ cùng vua, 15 đặng người ta tra-khảo trong sử-ký các tổ-phụ vua: tất sẽ tìm thấy trong sách sử-ký đó và biết rằng cái thành nầy vốn một cái thành phản-nghịch, gây thiệt-hại cho các vua và nước; từ thuở-xưa, người ta hay làm loạn ở đó; bởi cớ ấy thành nầy đã bị phá-hoang. 16 Chúng tôi tâu cáo vua hay rằng nếu thành nầy được cất lại, và vách-tường nó được xây lên, tất tại cớ ấy, đất ở phía bên nây sông sẽ chẳng còn phục vua nữa.

17 Vua bèn giáng chiếu cho tể-tướng Rê-hum, cho thơ-ký Sim-sai, và cho các đồng-liêu của họ ở tại Sa-ma-ri và ở trong các miền khác phía bên nây sông, mà rằng:

Nguyện các ngươi bình-yên.

18 Bức biểu các ngươi dâng tấu lên ta đã đọc ra tỏ-tường trước mặt ta. 19 Cứ theo mạng-lịnh, ta người ta đã tra-khảo, thấy rằng từ đời xưa cái thành nầy có dấy-loạn với các vua, và trong nó hằng có sự phản-nghịch và việc nguỵ-đảng. 20 Lại tại Giê-ru-sa-lem đã có những vua rất quyền-thế, quản-hạt cả xứ ở bên kia sông, và người ta tiến-cống, nộp thuế, và đóng tiền mãi-lộ cho các vua đó. 21 Vì vậy, các ngươi hãy truyền lịnh ngăn-cản những người đó cất lại cái thành nầy, cho đến chừng ta ban chiếu-chỉ về việc đó. 22 Khá cẩn-thận về sự nầy, e các vua bị thiệt-hại thêm chăng.

23 Vừa khi đã đọc chiếu của vua Ạt-ta-xét-xe trước mặt Rê-hum, thơ-ký, Sim-sai và các đồng-liêu họ, thì chúng đồng lật-đật đi đến dân Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem, lấy năng-lực và cường-quyền khiến họ ngưng công-việc. 24 Vậy, công-việc xây-cất nhà của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đình cho đến năm thứ hai đời Đa-ri-út, vua Phe-rơ-sơ, trị-vì.

  1. Nghĩa là sông Ơ-phơ-rát.