Bước tới nội dung

Giô-suê/21

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Giô-suê của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 21

Bốn mươi tám cái thành cấp cho người Lê-vi

211 Bấy giờ, các trưởng-tộc người Lê-vi đến gần thầy tế-lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun, và các trưởng-tộc của những chi-phái Y-sơ-ra-ên, 2 nói cùng họ tại Si-lô trong xứ Ca-na-an, mà rằng: Đức Giê-hô-va cậy Môi-se truyền ban những thành cho chúng tôi ở, và đất chung-quanh thành đặng dùng cho súc-vật chúng tôi. 3 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên vâng mạng Đức Giê-hô-va, lấy trong sản-nghiệp mình những thành sau nầy, và đất chung-quanh nó, mà cấp cho người Lê-vi.

4 Người ta bắt thăm cho các họ-hàng Kê-hát; những con-cháu của thầy tế-lễ A-rôn về dòng Lê-vi bắt thăm được mười ba thành bởi trong chi-phái Giu-đa, chi-phái Si-mê-ôn, và chi-phái Bên-gia-min. 5 Còn những con-cháu khác của Kê-hát, theo thăm được mười cái thành của chi-phái Ép-ra-im, của chi-phái Đan, và của phân nửa chi-phái Ma-na-se. 6 Đoạn, con-cháu Ghẹt-sôn, theo thăm được mười ba cái thành của chi-phái Y-sa-ca, của chi-phái A-se, của chi-phái Nép-ta-li, và của phân nửa chi-phái Ma-na-se ở Ba-san. 7 Con-cháu Mê-ra-ri, tùy theo những họ-hàng của chúng, được mười hai cái thành của chi-phái Ru-bên, của chi-phái Gát, và của chi-phái Sa-bu-lôn. 8 Dân Y-sơ-ra-ên bắt thăm cấp cho người Lê-vi các thành đó với đất chung-quanh, y như Đức Giê-hô-va đã cậy Môi-se truyền dặn cho.

9 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên lấy trong chi-phái Giu-đa và trong chi-phái Si-mê-ôn, các thành có chỉ tên đây, mà cấp cho. 10 Con-cháu A-rôn về dòng Kê-hát, là con trai Lê-vi, được các thành ấy; vì phần thứ nhứt bắt thăm trúng về họ. 11 Người ta bèn cấp cho họ thành Ki-ri-át-A-ra-ba, (A-ra-ba là cha của A-nác), tức là Hếp-rôn ở trên núi Giu-đa, và đất chung-quanh thành đó. 12 Còn địa-phận của thành, và các làng nó, thì người ta cấp cho Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê, làm sản-nghiệp. 13 Người ta cấp cho con-cháu thầy tế-lễ A-rôn thành Hếp-rôn, là thành ẩn-náu cho kẻ sát-nhơn, và đất chung-quanh thành; Líp-na và đất chung-quanh thành, 14 Giạt-thia và đất chung-quanh thành, Ê-thê-mô-a và đất chung-quanh thành, 15 Hô-lôn và đất chung-quanh thành, Đê-bia và đất chung-quanh thành, 16 A-in và đất chung-quanh thành, Giu-ta và đất chung-quanh thành, Bết-Sê-mết và đất chung-quanh thành: hết thảy chín cái thành của hai chi-phái nầy. 17 Người ta lại lấy trong chi-phái Bên-gia-min mà cấp cho họ, Ga-ba-ôn và đất chung-quanh thành, Ghê-ba và đất chung-quanh thành, 18 A-na-tốt và đất chung-quanh thành, cùng Anh-môn và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 19 Cọng các thành của những thầy tế-lễ, con-cháu A-rôn, là mười ba cái thành với đất chung-quanh.

20 Những người Lê-vi thuộc về họ-hàng con-cháu khác của Kê-hát, được mấy thành trong chi-phái Ép-ra-im làm phần của mình. 21 Người ta cấp cho họ Si-chem, thành ẩn-náu cho kẻ sát-nhơn, ở trên núi Ép-ra-im, và đất chung-quanh thành, Ghê-xe và đất chung-quanh thành, 22 Kíp-sa-im và đất chung-quanh thành, Bết-Hô-rôn và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 23 Người ta lấy trong chi-phái Đan, cấp cho họ Ên-thê-kê và đất chung-quanh thành, Ghi-bê-thôn và đất chung-quanh thành, 24 A-gia-lôn và đất chung-quanh thành, Gát-Rim-môn và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 25 Lại lấy trong phân nửa chi-phái Ma-na-se, Tha-a-nác và đất chung-quanh thành, Gát-Rim-môn và đất chung-quanh thành: hết thảy hai cái thành. 26 Cọng là mười cái thành và đất chung-quanh thành cho những họ-hàng của các con-cháu khác của Kê-hát.

27 Người ta cũng lấy trong phân nửa chi-phái Ma-na-se, thành Gô-lan ở xứ Ba-san, là thành ẩn-náu cho kẻ sát-nhơn, mà cấp cho con-cháu Ghẹt-sôn về các họ-hàng Lê-vi, và đất chung-quanh thành ấy, Bết-ê-ra và đất chung-quanh thành: hết thảy hai cái thành. 28 Lại lấy trong chi-phái Y-sa-ca, Ki-si-ôn và đất chung-quanh thành, Đáp-rát và đất chung-quanh thành, 29 Giạt-mút và đất chung-quanh thành, Ên-ga-nim và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 30 Từ trong chi-phái A-se, lấy Mi-sê-anh và đất chung-quanh thành, Áp-đôn và đất chung-quanh thành, 31 Hên-cát và đất chung-quanh thành, Rê-hốp và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 32 Cũng lấy trong chi-phái Nép-ta-li, thành Kê-đe ở Ga-li-lê, là thành ẩn-náu cho kẻ sát-nhơn, và đất chung-quanh, Ha-mốt-Đô-rơ và đất chung-quanh thành, Cạt-than và đất chung-quanh thành: hết thảy ba cái thành. 33 Cọng các thành của người Ghẹt-sôn, tùy theo những họ-hàng, là mười ba cái thành với đất chung-quanh.

34 Người ta cũng lấy trong chi-phái Sa-bu-lôn mà cấp cho những họ-hàng con-cháu Mê-ra-ri, tức là những người Lê-vi sau chót, thành Giốc-nê-am và đất chung-quanh thành, Cạt-ta và đất chung-quanh thành, 35 Đim-na và đất chung-quanh thành, Na-ha-la và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 36 Từ trong chi-phái Ru-bên, lấy thành Bết-se và đất chung-quanh thành, Giát-sa và đất chung-quanh thành, 37 Kê-đê-mốt và đất chung-quanh thành, Mê-phát và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 38 Lại lấy trong chi-phái Gát, thành Ba-mốt ở xứ Ga-la-át, là thành ẩn-náu cho kẻ sát-nhơn, và đất chung-quanh thành, Ma-ha-na-im và đất chung-quanh thành, 39 Hết-bôn và đất chung-quanh thành, Gia-ê-xe và đất chung-quanh thành: hết thảy bốn cái thành. 40 Cọng các thành cấp cho con-cháu Mê-ra-ri, tùy theo những họ-hàng của chúng, tức là dư-hậu các họ-hàng Lê-vi, là mười hai cái thành.

41 Cọng các thành người Lê-vi ở giữa sản-nghiệp dân Y-sơ-ra-ên là bốn mươi tám cái thành cùng đất chung-quanh thành. 42 Mỗi thành ấy đều có đất chung-quanh; hết thảy thành cũng đều như vậy.

43 Thế thì, Đức Giê-hô-va ban cho Y-sơ-ra-ên cả xứ mà Ngài đã thề ban cho tổ-phụ họ. Dân Y-sơ-ra-ên nhận làm sản-nghiệp, và ở tại đó. 44 Đức Giê-hô-va làm cho tứ phía đều được an-nghỉ, y như Ngài đã thề cùng tổ-phụ họ, chẳng có một kẻ thù-nghịch nào còn đứng nổi trước mặt họ. Đức Giê-hô-va phó hết thảy kẻ thù-nghịch vào tay họ. 45 Trong các lời lành mà Đức Giê-hô-va đã phán cho nhà Y-sơ-ra-ên, chẳng có một lời nào là không thành: thảy đều ứng-nghiệm hết.