Giọt máu chung tình/Hồi thứ mười bảy

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MƯỜI BÃY

Tìm Thu-Hà tớ thầy vào khách quán

Thám sơn động ma quỉ dọa anh-hùng

Cái tình cãnh thê thãm cũa Tiễu-thơ ở tại Thạch-đình thể nào, đây tôi xin đình lại ít phúc đồng hồ, đặng thuật sự Vỏ-đông-Sơ đi kiếm Tiễu-thơ cho khán quan rỏ trước,

Từ Vỏ-đông-Sơ ở Đông-kinh đi với hai tên quân nhơn ra Tĩnh Hãy-ninh, khi đi tới tĩnh Quãng-Yên trời đã gần tối, thấy dựa đường có một nhà quán vẻn vang rộng rãi. Đông-Sơ với hai tên bộ-hạ ghé lại biễu dọn một bửa cơm, đặng ba thầy trò ăn uống, và tá túc một đêm. Tên quán lật đật dọn một phòng riêng phía trong sạch sẻ, rồi sữa soạn cơm nước bĩ bàn; Đông-Sơ và hai tên bộ hạ đều ngồi lại ăn chung. Kế thấy phía trước quáng một người có râu lém đém và một người còn trai. Hai người bộ tướng vậm vở, ngoài cữa bước vô, lại ngồi nơi ghế, kêu chủ quán biểu đem rượu ra uống, rồi day lại hõi: Anh quán, anh có rượu sen thiệt tốt không?

Tên quán nói có, song rượu đó giá mắt hơn rượu thường.

Tên kia nói: mắt rẻ cần gì, miễng rượu thiệt tốt thì đặng.

Tên quán hỏi: hai cậu muốn mua bao nhiêu? »

Tên có râu nói: « mua chừng hai ché. »

Quán hỏi: mua chi nhiều vậy? »

Tên kia nói: anh không biết ngày mai nầy là ngày đám cưới cũa chũ tôi là Hoàng nhứt-Lang-sao?

Tên quán nghe nói thì dững hai chăn mày, mĩnh cười và nói: tưởng ai chớ đám cưới Hoàng đại nhơn thì tôi đã có sẵn sàng rượu tốt, hai cậu chớ lo, muốn lấy chừng nào cũng đặng.

Tên kia nói: lấy tức thời bây giờ anh hãy đem ra coi thữ. »

Tên quán vội vã vô bưng hai ché rượu ra và nói: rượu nầy một ché hai nén bạc, ấy là để cho Hoàng-đại-nhơn, còn người ta thì giá mắt hơn nửa. »

Tên có râu liền thò tay vào túi móc ra bốn nén trả cho tên quán, rồi day lại uống rượu với tên kia. Con Đông-Sơ với hai tên bộ hạ ngồi phía trong tấm bình phong, lẳng lặng làm thinh đễ lóng tai nghe thữ. Kế nghe tên quán hỏi: chẳng biết Hoàng-Đại nhơn cưới vợ ở đâu? Xin hai cậu nói cho tôi rỏ với.

Tên kia nói: cưới tại Sơn-động.

Tên quán nhiếu mày và rùng vai mà nói: ai không biết cưới tại Sơn-động, song tôi muốn hõi người vợ quê quán ở đâu và tên họ chi cho biết. »

Tên kia day lại ngó chú quán và cười hà hà mà nói: à, nàng ấy, tôi không biếì tên chi, song nghe nói quê ở Đông-Kinh, mà bây giờ đây đã có hiện diện ở tại Sơn-động.

Đông-Sơ ngồi trong nghe nói thì lấy làm lạ, liền lấy mắt nháy hai tên bộ hạ, dường như biễu hai tên ấy lóng tai nghe coi. Kế nghe tên quán hõi nữa: cậu nói lạ quá, chưa cưới mà sao nàng ấy đã có tại Sơn-động? sự ấy cũng kỳ, cậu nói chơi sao chớ?

Tên kia lấy chén rượu uống một hơi rồi nói: vậy mới gọi rằng có duyên, nên tục diêu người ta nói rằng: Có duyên thì gặp vợ xinh, không duyên đứng dựa cột đình ngó mông. Nàng ấy chẳng biết ở đâu mà cô-hai gặp đem về đó. Còn như anh em mình đây, gái xấu xấu đó còn kiếm chẳng ra, có đâu thinh không mà gặp nhằm gái lịch như vậy.

Tên trai kia nói: thật nàng ấy lịch sự vô song, và con Tỷ-tấc của nàng, tên là Xuân-Đào, mặt mày cũng bảnh. Nói rồi lấy chén rượu uống một hơi, rồi mỗi người lại xách một ché rượu sen, từ giả chú quán ra đi, tuốc về Sơn-động.

Đông-Sơ nghe nói tới tên Xuân-Đào thì sững sốt một hồi, rồi nói: Nếu vậy thì chắc là Tiễu-thơ với Xuân-Đào chẳng sai, song chưa rỏ cớ nào, mà lạc vào Sơn-động, liền day lại kêu tên quán và hỏi rằng: ngươi ở đây có biết gốc rể Hoàng-nhứt-Lang là ai chăng? và người ấy ở núi nầy làm nghề gì, xin nói cho ta rỏ.

Tên quán nói: Tôi nghe Hoàng-nhứt-Lang khi trước là Bộ-hạ của Nguyển-quang-Toãn. Từ khi Nguyễn-quang-Toãn thất thũ Bắc-kỳ rồi thì Hoàng-nhứt-Lang đam bộ-hạ gia-đinh rất đông, đến chím cứ núi nầy ở đó gần mười năm nay, và có một người em gái tên Hoàng-nhị-Cô tục kêu cô hai. Anh em đều vỏ nghệ tinh thông. Em thì chuyên nghề săn bắn, nên ngày đêm hay dạo chốn rừng cao, còn anh thì du lịch giang-hồ, nên lắm lúc hay cởi thuyền vược biển.

Đông Sơ nghe nói thì tầm tư tự nghĩ một hồi, rồi day hỏi tên quán, đường lên Sơn-động bao xa?

Tên quán nói: đây lên Sơn-động có hai ngã. Một ngã đi quanh quanh lộn lộn trong núi rất xa, nếu không biết đường thì đi tối ngày cũng chẳng tới, và nhiều khi phải lạc vào rừng, không đường ra đặng.

Còn một ngã đi phía sau Cổ-tháp, lên Sơn-động thì gần, song rất hiểm nghèo ghê gớm lắm. Có nhiều người lên đó mà phải bỏ mạng, kẻ thì bị chết treo trên ngọn cây, kẻ thì chết khô trong bộng đá. Mới tháng trước đây, hai người ở xóm nầy uống rượu xình-xoàng, rồi nữa đêm dắc nhau lên tháp, nói đi coi yêu quái thễ nào, đi trọn một đêm mà chẳng thấy về. Sáng ngày vợ con và anh em dắc nhau lên kiếm, thì thấy một người bị chết treo trên cây đại thọ, le lưởi dài hơn ba tất. Còn một người ngồi dựa kẹt đá, mặt mày xanh dờn, mình mẫy đều lắm bùn. Mấy người kia lật đật lại coi, thì còn sống mà nói không đặng, xem lại thì trong miệng đầy những bùn, đất.

Đông-Sơ nghe rồi thì gặt đầu hai ba cái và nói: nếu quã thiệt yêu quái rất hung thì chẳng nên khinh sức mà đến đó. Nói rồi biểu tên quán sửa sang phòng buồng, đặng ba thầy trò ngơi nghĩ. Tên quán vội vả dọn phòng xong rồi, mời Đông Sơ vào nghĩ, còn va thì ra ngũ nơi nhà sau.

Một lác Đông-Sơ ngồi dậy bước ra thấy tên quán đã ngũ ngáy pho pho. Ngoài sân thì trăng sáng mờ mờ. Đông-Sơ bèn kêu hai tên bộ hạ lại và dặn một tên phải ở tại quán, giữ đồ hành lý, và coi ngựa, còn một tên theo ta đi thám thính Sơn-động, đặng dọ coi tin tức Tiễu-thơ. Đó rồi Đông-Sơ lén lén mẻ cữa trước ra đi một đỗi, thấy trước mặt có một giang rừng. Đông-Sơ và tên bộ hạ cứ theo đường mòn lần lần đi vào, hai bên cây bụi rậm ri thật là quạnh hiu vắng vẻ.

Khi đi khỏi rừng ra tới khoãn trống, thì thấy một cái tháp rất cao, ở dựa trên núi. Đông-Sơ day lại nói với tên bộ hạ biểu phải coi chừng hai bên đường và trước sau cho cẩn thận.

Tên bộ hạ nói: tới đây đường sá tối tâm gay trở lắm, xin quan nhơn đi sau để cho tôi đi trước, đặng dọ thăm đường sá, kẻo e hầm hố hiễm nguy. Nói rồi bước tới đi trước. Hai thầy trò ngó trước xem sau, lần lần đi tới. Bổng thấy trước tháp có một cây đại thọ rất lớn, bàn căng cố đế, chẳng biết mấy trăm năm, cây lá rậm ri, tàng nhánh de ra, xa hơn mấy trượng.

Khi đi tới giữa cây, Đông-Sơ thấy một lằng đen nhỏ nhỏ, trên cây thòng xuống. Xảy nghe tên bộ hạ la lên một tiếng bài hãy, thì thấy tên ấy hai chơn đã hõng đất lên gần một thước.

Đông-Sơ liền rút gươm nhãy tới chặt cái dây kia một cái rất mạnh, giây ấy đứt ngang, thì thấy tên bộ hạ vừa rớt xuống đất. Đông-Sơ day lại đở tên ấy đứng dậy, thì thấy vòng dây kia vấn ngang qua cỗ, còn một mối thì lòng thòng bên vai, lật đật mở ra thì tên bộ-hạ đã vừa tĩnh lại. Đó rồi hai thầy trò ngó lên cây kiếm coi, thì thấy một bóng đen thui đi thấm thoát trên nhánh cây, như đi trên mặt đất, đi vô tới chỗ nhánh lá rậm rạp rồi mất.

Đông-Sơ day lại nói nhỏ với tên bộ hạ: chuyến nầy mi hảy đi sau, để ta đi trước mới đặng, đó rồi hai thầy trò chẩm hẩm bước đi, chẳng chút chi gọi rằng sợ sệt. Hai bên đường đá dựng chập chồng, chổ cao chổ thấp, thình lình nghe phía sau la lên một tiếng cứu tôi, cứu tôi. Đông-Sơ ngó ngoái lại thấy tên bộ hạ còn ló cái đầu và hai tay chới với bên lề đường, còn hai chơn và mình đều lúc xuống đất.

Đông-Sơ liền nhảy lại nắm hai cánh tay. Ra sức kéo lên. Còn phía dưới hang dường như có ai niếu chơn trì xuống. Hai đàng nhũn nhẳn hồi lâu. Đông-Sơ liền hét một tiếng biễu lên, tên bộ hạ mượn thế Đông-Sơ vùng một cái rồi nhảy lên trên đất, ngó lại thì thấy một hang đá rất sâu, dưới hang tối thui như mực.

Tên bộ hạ đã hoãng vía kinh hồn, đứng thở pho pho như trâu cắt cổ. Đông-Sơ hỏi cớ sao mà mi sụp xuống hang ấy? Tên kia nói: Tôi đương đi với quan-nhơn, bỗng thấy dưới đất ló lên hai cánh tay đen thui, rồi thò nắm hai ống chơn tôi, hơi lạnh như đồng, tay nhám như da cá đuối. Tôi chưa kịp vùng thì đã kéo ngay xuống lổ, bây giờ hai chơn còn đau lăng-tăng, rờ coi thì rần rần dường như rướm máu.

Đông-Sơ cũng lấy làm sự quái gở, rồi nỗi giận lại ôm cục đá dựa đường rất to, quăng xuống hang ấy một cái nghe kêu bon bon, dường như liệng đá xuống giếng sâu vậy. Đó rồi hai người lần lần đi tới cái cổ tháp, thì thấy bốn phía quạnh hiu, cửa đóng then gài, phía ngoài có một vòng thành xây bọc xung quanh, cỏ mọc biềm leo rậm rạp.

Hai thầy trò đứng ngó một hồi, rồi lần lại phía sau leo thành nhảy vô, thấy trong tháp tối mò, tư bề lặng lẻ, duy nghe những tiếng sành kêu tích tích, dế gáy re re, trước ngỏ quanh hè, dơi bay rẹt rẹt. Đông-Sơ với tên bộ hạ rút gươm cầm nơi tay, rồi lần bước vào trong. Bỗng thấy một lằng ánh sáng nhán qua rồi mất.

Đông-Sơ nói với tên bộ hạ, biễu phải coi chừng bốn phía cho kỷ. Kế nghe trong cữa rọc rạch dường như chơn đi động đất, nhưng chẳng thấy chi. Đông-Sơ đứng lại để coi. Kế thấy một bóng đen cao lớn sầm sầm, phăn phăn đi tới. Đông-Sơ cầm gươm hét lên một tếng hỏi ai, phải yêu quái đó chăng? Cái bóng đen kia liền đứng lại rồi đi vòng ra phía sau.

Đông-Sơ với tên bộ hạ bước theo, nhưng bị bàn ghế cãng trở nghinh ngan, nên đi mau không tiện. Còn cái bóng đen kia đi quanh qua lộn lại thấm thoát như không, và nghe tiếng áo cọ nhau lào xào, như tiếng đệm bao ai kéo trên đất vậy.

Đông-Sơ nóng nãy quyết rược theo bóng đen ấy mà đâm một gươm, song tên bộ hạ cứ niếu áo Đông-Sơ và đi và rung lập cập. Đông-Sơ nỗi giận hét lên một tiếng lớn biễu ngừng. Trong lúc đêm thanh canh tịnh, cái tiếng ấy dội vào núi vang rân, dường như ai đứng ngoài rừng nhái lại.

Còn cái bóng đen kia cứ nhởn nhởn nhơ nhơ đi quanh lộn ra phía nhà sau, tự nhiên tề tề tĩnh tĩnh, như tuồng chẳng nghe chẳng đếm chi đến lời Đông-Sơ kêu gọi. Bỗng đâu một ánh sáng nhán qua, liền thấy hình đen kia, mặt lớn chần vần như mâm, nanh vúc lộ ra như quĩ dạ-xa một thứ.

Tên bộ hạ thấy liền phát rét rung en, hai hàm răng đánh nhau, nghe khua cấm cốp. Còn Đông-Sơ thì lữa giận phừng gan, liền rúc cây súng tiễu thương ra rồi nhắm ngay cái bóng đen ấy và nói: Ớ bóng đen kia, nếu mi chẳng ngừng thì ta cho mi một mũi súng nầy, xỏ ngay vào ruột. Nhưng cái bóng kia xâm xâm đi mãi. Đông-Sơ liền dương súng nhắm ngay bắn ra một mũi, nghe kêu cái bộp, coi lại thì bóng đen ấy còn đi tự nhiên như thường. Đông-Sơ thạnh nộ rút gươm nhảy tới rược theo, thì bóng ấy bước ra cữa sau rồi mất.

Đông-Sơ và tên bộ hạ xốc lại nơi cữa, đương đứng dòm coi, bỗng đâu dưới chơn dường như đất sụp thinh không. Đông-Sơ tức thì nhảy trái ra một cách lẹ làng, rồi ngó lại thì tên bộ hạ đã sụp mất xuống hang, và miệng hang liềng lại như củ, không thấy chi hết.

Đông-Sơ giận lấy gươm dộng trên miệng hang, và hét lên rằng: Hảy mở cửa hang ra, mà trả tên bộ hạ cho ta, và nói và dộng trên miệng hang đùng đùng, song cữa miệng hang dày như váng ngựa, không thế chi phá nỗi.