Giọt máu chung tình/Hồi thứ mười tám

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MƯỜI TÁM

Nhắc tiền tích nghĩa-sĩ gặp ân-nhơn,

Giả chuyện trò, Đông-Sơ dò ý tứ.

Khi tên bộ hạ té nhào xuống lổ, thì hai tay và mình mẩy đều bị dây vấn chặc vùng vẩy không nổi. Thoạt nghe trên lầu tháp đánh ba tiếng chuông, kế thấy hai bên vách ló ra hai ngọn đèn và hai người mặt đồ đen trong cữa hang bước ra.

Mổi người đều mang một cái mặt nạ vằn vện như quỉ, tóc bỏ xù xụ bên vai và ngó tên Bộ-hạ và nói: ngươi đã xuống cỏi âm-ty, thì phải vào chầu diêm-chúa.

Tên Bộ-hạ vùng vẩy kêu la một hồi, song bị dây vấn chặc cứng hai tay như lưới nhện vấn ruồi, vùng vẩy không đặng. Đó rồi hai tên quái kia nắm hai mối dây dắc đi, như pháo thủ dẫn tù, đem ra tòa hình mà kêu án.

Khi đi quanh lộn trong hang, nhờ có đèn sáng mờ mờ, nên thấy hai bên đường, đá dựng chập chồng, chổ do ra chổ hũn vô, lổ đỗ như tàng ong, có ngách có hang, uống éo quanh co, xem dường xà-đạo. Khi tới một cữa đá, hai tên quái kia mỡ cữa giắc tên Bộ-hạ bước vô, thấy một động đá lớn như tòa nhà, phía trước có sân rộng, thềm cao. xem dường một chổ Thính đường công sự. Kế thấy mười người mặt đồ đen trong cửa sau bước ra, mổi người tay cầm một cây đèn sáp, thấp sáng như ban ngày, rồi lại đứng hai bên sân, coi bộ oai nghi tề chĩnh, ngó vô trong thì thấy một người ngồi giửa, và một người đứng phía bên kia, cả hai đều phủ một tấm lưới đen lòng thòng trước mặt.

Hai tên quái kia liền dắc tên bộ-hạ vô đứng trước sân, người ngồi giữa thấy thì hỏi: mi là ai sao dám lén vào sơn động?

— Thưa tôi đi săn bắn với chủ tôi, rủi bị lạc đàng, lở bước vô đây, chớ chẳng phải người gian tế.

Người ngồi giữa day lại ngó mấy tên đứng hầu hai bên và nói: Vậy bay hảy đem treo nó trên cây đại thọ, chờ bắt đặng chủ nó rồi sẻ trị tội luôn thể.

Vừa dứt lời thì đã thấy mấy tên kia áp lại dẩn tên Bộ-hạ đi quanh qua lộn lại một hồi, khi ra khỏi hang, tới một cây rất lớn. Mấy tên kia lại đứng vây xung quanh gốc cây, mỗi người đều cầm một ngọn đèn sáp, đốt lên sáng rở. Kế đó một tên lại thòng mối dây trên nhánh cây xuống và cột hai tay tên Bộ-Hạ lại, rồi lấy một mối dây kia, đặng nắm mà rút lên.

Tên Bộ-hạ thấy vậy thất kinh, rung như thằng-lằng và bệu-bạo và nói: các cậu ôi, xin các cậu làm ơn để tôi dưới đây, nếu treo lên ngọn cây, thì chắc đêm nay phải chết.

Tên kia nói: mi sợ chết sao còn dám lết vào đây, thôi đễ tao cho mi chuyến nầy làm con ma lưởi dài ba tất, nói rồi lại nắm mối dây kia, mới vừa rút lên, thì la trời ôi một tiếng rồi té nhào xuống đất.

Mấy tên kia chẳng biết cớ chi, xúm lại đở lên, thì thấy một muỗi tên ghiêm ngang bắp tay, máu ra lai láng, mấy tên kia lật đật rút mủi tên ra, rồi chạy rảo bốn phía xung quanh, kiếm coi ai bắn, song chẳng thấy một ai, liền chạy báo cho chủ hay lập tức.

Một lát thấy hai người, trên mặt đều phủ hai tấm lưới đen, trong động phăn phăn đi ra và truyền cho bọn nó đốt đuốc thắp đèn, rọi kiếm khắp nơi, coi ai bắn mủi tên ấy. Khi ngó lên gộp đá cao kia, thấy một người tay cầm cung, tay chống nạnh, bộ tướng như thiên thần, đứng cách tề tỉnh oai nghi, chẳng chúc chi là nao lòng động ý.

Tên chủ Sơn-động liền bước tới kêu lớn mà hỏi rằng: Tên kia, ngươi là ai, sao nửa đêm dám đến đây mà làm đều vi pháp như vậy? Ngươi chẳng biết cái Sơn-động nầy là một chổ rất nguy hiểm sao? hễ ai vào đây mà chẳng có lịnh ta, thì không thế gì ra đặng, vậy ngươi là ai nói ngay cho ta biết?

Người đứng trên gộp đá đáp rằng: Đứa bị treo kia có tội chi, mà bị hành hình cách dữ tợn như thế. Nên ta đến đây cứu nó. Ta là một đứng đường đường khí phách, đã từng vào sanh ra tử, vược biễn trèo non, xem những sự nguy hiễm trên thế gian nầy như một chổ hí trường (trò chơi) có chi lạ mà gọi rằng chẳng biết. Còn như ngươi muốn hỏi tên ta xin hảy chịu khó ngó lên cái chéo khăn của ngươi, thì rỏ.

Người kia nghe nói vừa liết mắt ngó lên, thì đã thấy một mủi tên bay tới ghiêm nơi chéo khăn, thất kinh với tay rút mủi tên xuống xem, thì thấy trên đầu mủi tên có đề « Vỏ-đông-Sơ » ba chử.

Nguyên Vỏ-đông-Sơ là một người có tài bắn giỏi phi thường, và tài trèo non cũng đệ nhứt. Nên khi tên Bộ-Hạ sụp xuống miệng hang rồi, Đông-Sơ tính phá cửa hang không nỗi liền nhảy thành ra khỏi cái tháp, rồi băng rừng vược bụi chuyền gộp đá nầy qua gộp đá kia, đi trên non thấm thoát như đi dưới đất bằng, quyết lục ngách tìm hang mà kiếm tên Bộ-hạ cho đặng.

Khi trèo lên một gộp đá kia, bỗng thấy bọn Sơn-Động đương đem tên Bộ-hạ mà treo lên nhánh cây. Thì Đông-Sơ đứng trên gộp đá cao dương cung ráp tên rồi nhắm ngay cánh tay tên kia bắn cho một mủi. Đến lúc tên chủ Sơn-Động ra hỏi danh tánh, thì Đông-Sơ muốn đem cái tài bắn phi thường của mình ra chưng sơ cho chúng nó thất kinh, nên chẳng chịu lấy miệng mà xưng danh, lại lấy mũi tên bắn ghiêm nơi chéo khăn đặng cho chúng nó xem đó thì biết danh và biết tài của mình luôn thễ.

Khi tên chủ Sơn-động rút mủi tên xuống xem thấy 3 chữ Vỏ-đông-Sơ thì day lại ngó châm chĩ trên gộp đá một hồi rồi hỏi:

Vỏ-đông-Sơ nào, phải là Đông-Sơ Trung-húy chăng?

Đông-Sơ nói: phải.

Người ấy liền day lại nói với người đứng một bên rằng Vậy thì Vỏ-đông-Sơ nầy là người ân-nhân, hai ta phải ra nghinh tiếp Nói rồi hai người đều lấy tấm lưới đen trước mặt xuống, và lật đật bước ra trước gộp đá, cúi đầu chào Đông-Sơ và nói: tôi cam thất lễ, xin ân-nhân miễng chấp.

Giữa sân đèn sáng tỏ rỏ, Đông-Sơ ngó lại thì thấy người ấy còn trai, đầu bịt khăn đen, mình mặc một bộ đồ vỏ-phục, mủi cao mày rậm, tướng mạo khôi ngô, rồi ngó lại người đứng phía sau thì thấy một gái quốc sắc hồng nhan, tác chừng hai mươi mấy tuổi, má phấn môi son, dung nghi kiều mi, cũng mặt một bộ đồ vỏ-phục, bộ tướng gọn gàn, trên vai có choàn một cái áo lông chiên phủ ra trước ngực, đứng phía sau, mắt liếc Đông-Sơ, chúm chiếm miệng cười như bông phù dung mới nở.

Đông-Sơ lấy làm lạ ngó sững mà chẳng biết người nào, rồi day hỏi người trai kia rằng: « Túc-hạ và Cô-nương là ai xin nói căng do cho tôi rỏ.

Tên kia nói: tôi tên là Hoàng-nhứt-Lang còn người nầy là em gái tôi, tên là Hoàng-nhị-Cô. Cách ba tháng nay, khi tôi ở Bắc-kỳ về ngang biển Hà-Long, thình lình gặp bọn Hãi-khấu bên Trung-quốc, đón cướp thuyền tôi. Bọn nó rất đông, nên cự không lại, phải bị nó giết hết ba tên Thủy-thủ và gần bắt đặng tôi. May đau gặp đạo chiến thuyền của Quan-nhơn, đến đánh bọn nó vở tang, và cứu khỏi chúng tôi trong lúc nguy hiễm. Đương khi bất cập, tôi lật đật xuôi bườm vược biển, chẳng kiệp bái tạ ân-nhân. Song tôi thấy cây cờ cậm trước thuyền của ân-nhân, có đề 4 chữ “Đông-Sơ Trung-húy” thì tôi ghi dạ chạm lòng, đễ ngày sau gặp sẻ đền ơn tri-ngộ. Chẳng dè ngày nay gặp quan-nhơn đến đây, thật cũng một cuộc trùng phùng rất nên hân hạnh. Vậy xin ân-nhân theo tôi bước tới tư đường, rồi sẻ cạn lời trò chuyện.

Nói rồi giắc Đông-Sơ đi vòng theo đường núi, khi ra khỏi động thì thấy một tòa nhà rộng rãi nguy nga, trước sân có xây một vòng sơn-ly thạch-trụ, trong nhà ghế bàn rực rở đèn đuốc sáng lòa.

Đông-Sơ liếc mắt xem qua, thấy trước bàn thờ có để hai ché rượu, và nghi tiếc sẳng sàng, thì biết chắc ngày mai sẻ làm lễ cưới. Như lời hai người mua rượu đã nói tại quán trong lúc ban ngày đó vậy.

Nhứt-Lang bèn mời Đông-Sơ ngồi giữa khách đường, rồi hối trẽ đem trà, còn Hoàng-nhị-Cô từ giã rồi trở về tư thất.

Nhứt-Lang nói: khi tôi ở Bắc-kỳ nghe Quan-nhơn phụng mạng tuần dương, nhưng nay chẳng biết Quan-nhơn có việc chi đi đến xứ nầy, làm cho tôi đặng thấy tôn nhan, thì chẳng biết bao nhiêu thỏa tình ái mộ. »

Đông-Sơ nói: Từ khi tôi dẹp yên Hải-khấu kế đặng Thánh-chĩ gia thăng làm chức Đô-húy và sai đi tuần thủ phía Nam-quang. Khi đi tới đây, thì trời tối, tôi bèn tạm quán nghĩ ngơi, nghe nói núi nầy thú nhiều, nên thầy trò tôi đi săn chơi, đặng dạo xem phong cảnh luôn thễ. Nay tôi đến đây thấy cuộc qui mô hoằng tráng, đống vỏ nguy nga; tôi rất khen cho Túc-hạ thật khéo kinh dinh, nhưng mà trong việc chũ quĩ môn đình, chẳng biết Túc-hạ đã có người tề gia nội trợ hay chưa? Xin nói cho tôi kính mừng luôn thể. »

Hoàng-nhứt-Lang nghe Đông-Sơ hỏi, thì cuời hà hà và nói: Thuở nay tôi mãng lo du lịch giang-hồ, bôn nam tẩu bắc, lấy kím cung mà làm sự nghiệp, mượn non nước mà làm cữa nhà, nhưng chưa toại chí tang bồng, tôi rất hổ phận nam-nhi đứng trong hoàn vỏ. Vì vậy nên, việc trăm năm tơ tóc, tôi cứ lãng lơ, gát đễ ngoài tai, mãng vui theo thú biển rộng non dài, mà việc gia-thất chưa người nội trợ. Nay mới gặp một nàng phương xa lạc bước, đã cùng tôi hứa định lương-duyên, vậy xin tỏ thiệt cùng quan-nhơn, mai nầy là ngày đám cưới hoa chúc động phòng của tôi. Ấy là ngày thứ nhứt trong đời tôi, mới bước vào đường nhơn duyên chồng vợ đó thôi.

Đông-Sơ bèn hỏi phăng thêm rằng: « Vậy ngày mai nầy là ngày Túc-hạ làm lể nghinh hôn, nhưng chẳng biết người của Túc-hạ cưới đây, quê quán ở đâu, mà gọi rằng phương xa lạc bước. »

Nhứt-Lang nói: Người ấy quê ở Đông-kinh, mẹ cha mất sớm, nên nàng tính qua Hải-ninh thăm viếng thân nhơn, chẳng dè rũi ro lạc bước giữa rừng, nhưng may gặp em gái tôi là Hoàng-nhị-Cô đem về hổm nay, bây giờ ở tại Sơn-động.

Đông-Sơ nghe nói tới đây thì thầm nghĩ rằng: Nếu lấy theo lời Nhứt-Lang nói vậy, thì quả thiệt Bạch-thu-Hà, nhưng chẳng biết cớ sao nàng lại bội ước vong tình với mình, mà hứa hôn cùng Nhứt-Lang cũng lạ?

Nghĩ rồi day lại nói nói cười cười, trò chuyện cùng Nhứt-Lang cho giả lãng, nhưng trong ruột đã sanh ra một khối đố hận nghi sầu, nó quặn quặn lừng lên ngăn ngang giữa ngực.

Hai người đàm đạo một hồi rồi, Nhứt-Lang biểu trẻ dọn phòng nơi khách-đường cho Đông-Sơ, còn Nhứt-Lang thì ra hậu đường rồi vào tư phòng ngơi nghỉ.