Giai nhơn kỳ ngộ/Hồi thứ nhứt

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Hồi thứ nhứt

Biển đông xưa có một chàng,
Tên là Tán-Sĩ 散 士 vốn trang anh hùng.
Nước nhà gặp vận truân hung,
Theo thầy qua Mỹ 美 gắng công học hành.
Sách đèn mượn thú cao thanh,
Non sông Phủ-Bí xung quanh là nhà.
Nhơn khi thong thả giạo ra,
Tìm tòi dấu cũ phôi pha lòng đời.
Các cao thừa hứng lên chơi,
Xem chuông độc-lập, đọc bài tự-do.
Nương song ngắm cảnh sơn hồ,
Càng nhìn tích cũ, thêm vo lòng vàng.
Quanh thềm chợt thấy hai nàng,
Khăn là che mặt, bóng hương nức người.
Mão giồi lông trắng phấp phơi,
Áo the mỏng mảnh, xiêm dài thêm hoa.
Phong tư rất mực Hằng-nga,
Cùng nhau trò chuyện gần xa chốn này.
Rằng: xưa người Mỹ hiệp bầy,
Bắt đầu độc lập tại đây nhóm bàn.
Anh-hùng để dấu giang sơn,
Thiệt năm bảy bốn, một ngàn bảy trăm! (1774)
Bồi hồi đoái bắc trông nam,

Kìa sông Đề-thủy, nọ đầm Táo-khê.
Vãn-hà tháo lịch các kia,
Tự-do từ ấy càng bia lòng người.
Xa gần mây nhóm ong rơi,
Giùm lương giúp vải gái trai một lòng.
Mẹ già quên phận long đong,
Khuyên con rơi lụy thẳng xông chiến trường.
Nghĩ tình trinh phụ mà thương,
Gắng chồng bỏ mạng theo đàng binh nhung.
Thua không nớm, thác không rùng,
Tự-do dầu đặng, anh-hùng thơm danh.
Hổ lang trăm vạn binh Anh,
Bẩy năm trôi máu thề giành tự-do.
Mộ-sĩ-Đốn phá ra tro,
Phú-tân khói rã, Hí-đô mây tàn.
Hoa-thạnh-Đốn một trái gan,
Binh tàn một đạo ra giàn Táo-khê.
Khí trời lạnh lẽo rất ghê,
Tuyết ra muôn dặm giá che đầy đường.
Binh tàn mà lại không lương,
Hái rau, lặt cỏ, đủ đường gian nan.
Trong khi các tướng luận bàn,
Thề liều một trận trải gan mới là.
Nửa đêm truyền hịch kéo ra,
Cuốn cờ ngậm thẻ tếch qua sông Đề.

Phá Anh một trận rất ghê,
Binh oai từ ấy bốn bề sấm vang.
Nghĩ tình lúc ấy lại càng,
Mấy trăm tướng sĩ nghèo nàn khá thương.
Giầy hư giép rách lang thang,
Giầm sương đạp tuyết đầy đường máu rơi.
Thương ôi! ngán nỗi cuộc đời!
Lạc sanh ố tử ai ai cũng tình.
Cớ chi bỏ xác liều hình,
Lo đền nợ nước coi mình như không.
Nghĩ thôi càng nức nao lòng,
Khen thay người Mỹ thực dòng văn-minh.
Nên chi chống lại cường-Anh,
Sửa sang học-hiệu tập tành công thương.
Dựng nên một nước phú cường,
Bốn phương ngợi chữ thái bình thung dung.
Đôi ta còn chút đèo bòng,
Bao giờ gặp gỡ đặng phong-quang này?
Nói rồi thở vắn than dài,
Chàng nghe thấp thoảng vào tai khôn dò.
Lạ thay đất nước tự do,
Thuyền-quyên sao cũng âu lo việc gì?
Hay là gặp buổi đời suy,
Tân-đình rơi lụy khóc vì núi sông!
Non tây đã xế vừng hồng,

Khách chơi tan bước chim đồng rật bay.
Hứng thừa chàng cũng vừa khuây,
Bồi hồi trở gót sang Tây ra về.
Đoái trông ráng phủ mây che,
Gió chiều leo lắt bốn bề quạnh hiu.
Lòng càng thổn thức chín chìu,
Ngậm ngùi tức cảnh trời chiều nên thi.

Thi rằng:

Giạo chơi Phủ-Bí hứng vừa khuây,
Khe Tảo sông Đề khói nước bay.
Mấy tiếng chuông vàng chim sập sựng,
Một vừng trăng bạc gió lung lay.
Đống xương không định chôn đâu mất,
Mảnh sắt chưa tiêu dấu hỡi đây.
Một cuộc nên hư trời cũng biết,
Xiết bao mắt trắng liếc xưa nay.

— Lân la qua rạng ngày mai,
Gió đưa mát mẻ khói bay lập lòa.
Thuyền con một chiếc giạo ra,
Noi theo dòng nước cao ca sông Đề.
Lần lần đến ngọn Táo-Khê,
Thấy dòng nước biếc xuôi bề chảy ra.
Hai bên rêu cỏ dườm dà,
Anh-đào đôi cụm lập lòa đơm bông.

Nước trong cá lội đáy sông,
Bốn bề quạnh quẽ sạch không bụi trần.
Đào-nguyên dấu cũ in ngần,
Đời nay kìa hỡi tị Tần là ai?
Hứng thi ngẫm nghĩ một vài,
Cầm đâu thấp thoáng qua tai dập dìu.
Gần miền chợt thấy hai Kiều,
Giữa dòng một lá kẻ chèo người tranh.
Phong-tư thấp thoáng bóng mành,
Xa trông ngỡ bực Cung Thanh giáng trần.
Cách chừng vài bước gần gần,
Nhìn chàng người cũng mấy phần đẻo đai.
Chàng càng dở nói dở cười,
Nhìn nhau luống những đôi ngươi thập thòi.
Thuyền qua thắm thoát như thoi.
Trông theo người đã tếch khơi nẻo nào?
Đôi bờ nước dợn sóng xao,
Trông vời chàng lại thêm ngao ngán lòng.
Nhẫn từ quán khách long đong,
Phiền hoa lần lữa bụi hồng bấy lâu.
Nào người tuyết nguyệt phong lưu,
Thiên-thai luống để chàng Lưu thêm sầu.
Bây giờ ngẫu nhĩ gặp nhau,
Nỗi lòng càng nghĩ càng dàu như dưa.
Mối tình gang tấc khôn đưa,

Sầu này ai có biết chưa chăng người?
Chàng càng thơ thẩn bồi hồi,
Giây lâu thuyền cũng vội dời lòng sông.
Đoái nhìn rực rỡ trăm bông,
Chim oanh thảnh thoát gió đông là đà.
Mé sông chợt thấy có nhà,
Bóng tùng bông liễu rặm rà quanh sân.
Tứ bề vắng vẻ bụi trần,
Phong quang thấp thoáng cõi thần non tiên.
Ghé vào trước cửa đậu thuyền,
Leo cồn lội vũng tới miền Táo-khê.
Cỏ non xanh ngắt tứ bề,
Cụm hoa cao thấp bầy dê đứng nằm.
Trông vời đồng rộng xa xăm,
Phất phơ luồng khói lầm ầm tiếng xe.
Bến sông chen chỏi tàu bè,
Nửa tình nửa cảnh như xe mối sầu!
Sụt sùi nghĩ trước tưởng sau,
Ngùi ngùi lại nhớ những câu phi thường.
Ba-tư xưa có vì vương,
Đem binh trăm vạn tranh cường cõi Âu.
Đi vừa giáp cõi hồng-câu,
Núi cao đứng ngựa lắc đầu thở than.
Rằng: nay hùng hổ muôn vàn,
Theo ta vượt biển băng ngàn tới đây.

Trăm năm xương trắng chất đầy,
Còn ai sống ở đời này nữa nao?
Thì thôi cuộc thế lảng xao,
Dầu là vương tướng hiền hào mà chi!
Âu-lê xưa có người thi,
Tên Ma-hạo-lãnh một thì tài danh,
Đương khi trời biển mông mênh,
Trông vời Cố-quốc động tình chơi vơi.
Rằng: nước Anh thạnh một thời,
Oai danh lừng lẫy một đời không hai.
E khi vật đổi sao dời,
Tan tành các lớn, rả rời lầu cao.
Bấy giờ mặc-khách thi-tao,
Chạnh tình điêu cổ xiết bao ngậm ngùi!
Nghĩ thôi chàng cũng sụt sùi,
Bơ vơ tìm lối hầu lui ra đàng.
Trong khi tìm bước vội vàng,
Gần gần chợt thấy hai nàng bên sông.
Ngẩn ngơ tiếc lục tham hồng,
Cách trong gang tấc khôn thông tình đầu.
Chần ngần đứng trót giờ lâu,
Một nàng sửa áo xóc bâu lại gần.
Tác vừa hai tám thanh xuân,
Mắt xanh răng trắng thanh tân lạ lùng.
Mầu da mia mĩa giá trong,

Tóc mây dùm dã, lưng ong dịu dàng.
Tay cầm nhành liễu xê xoang,
Gần xem phong thể lại càng thêm xuê
Phong nghi rất bực thâm quê,
Bóng sen thấp thoáng bông lê là đà.
Kề chàng chào hỏi lân la:
« Trền sông lúc nẫy phải là chàng chăng?
Chốn này vắng vẻ sơn lâm,
Kẻ tiều người mục chưa hằng đến đây.
Huống chi cao quí bực này,
Xưa nay ít kẻ tới đây chơi bời.
Xem chàng mắt sắc tóc tươi
Dám xin lỗi phải là người Ban-nha? »
Nghe lời chàng mới thưa qua:
« Tôi người Đông-hãi phương xa học hành ».
Nàng rằng: « biển thẳm non xanh,
Dặm khơi ai cũng động tình sơn da.
Chàng đi muôn dậm đường xa,
Ngày lâu e cũng nhớ nhà lắm chăng?
Lẫng lơ chàng mới thưa rằng:
« Xưa nay ai gặp ả hằng mấy khi.
Lạc-xuyên Vân-mộng đâu bì,
Tô-hoàng kém sắc Liên phi nhường tài.
Cớ chi lánh dấu trần ai?
Toan đem mắt trắng coi đời như không.

May đâu ngẫu nhĩ tương phùng,
Một cây chung bóng, một sông chung thuyền.
Ít nhiều âu cũng nhơn duyên,
Ba sinh chưa dễ ngẫu-nhiên lạ dường.
Nhớ câu giải cấu thanh dường,
Trong khi gặp gỡ lòng càng ngổn ngang ».
Nàng càng khép nép vội vàng,
Mặt che nhành liễu nhẹ nhàng thưa qua:
« Kià người bóng liễu đường xa,
Chàng dầu nói vậy thiếp đà dám đương ».
Nói rồi liền hỏi vội vàng:
« Bữa qua Phủ-Bí phải chàng vậy ư? »
Xuôi lời chàng cũng rằng: « ừ »,
Nỗi nàng chàng lại tóc tư dám phiền.
Thưa rằng: « thiếp hiệu Hồng-Liên,
Náo nương cùng chị trong miền Thương-lang.
Từ khi Phủ-Bí gặp chàng,
Chị tôi năn nỉ lòng càng khôn khuây.
Lạ thay cái dấu bèo mây,
Bữa qua trong các, bữa này ngoài sông.
Ước chi đặng đính chữ đồng,
Bàn duyên giải cấu, bớt lòng ưu tư ».
Nói rồi lòng lại còn nghi,
Xem trong tuồng mặt e khi người làng[1],

Lân la muốn biết dấu chàng,
Giục tôi lại hỏi quê hương cho rành.
Bây giờ đã biết ngọn ngành,
Xin chàng thương lấy chút tình cho nhau ».
Nói rồi vội vã bước mau,
Tới nơi gốc liễu cùng nhau thầm thì.
Trở ra giục giã xin đi,
Theo chơn chàng cũng tức thì bước sang.
Cửa ngoài sẵn thấy một nàng,
Xa trông lấp ló trăng vàng mây che.
Gần xem trong trẻo nhỏ nhe,
Mỉa mai hạc trắng, lập loè thềm tiên.
Độ chừng mười chín hoa niên,
Tân trang đẹp đẽ sánh tiên Quảng-hàn.
Đủ màu thu thủy xuân san,
Nói cười nườm nở dung nhan mỹ miều.
Xiêm the vừa thắt ngang eo,
Gót sen thấp thoảng hương đeo nức người.
Trong khi chào hỏi thảnh thơi,
Khác gì thần nữ ra đời một khi.
Chàng càng động tấm tình si,
Vừa chào vừa thẹn dung nghi lở làng.
Nàng thì cười nói nhẹ nhàng,
Tay đưa ghế dựa mời chàng ngồi yên.
Chàng ngồi nhắm cảnh gia viên,

Sông Đề quanh trước sau liền Táo-Khê.
Hai bên cây cỏ xanh rì,
Bông đào tơ liễu sâm si quanh tường.
Lồng hoa treo cạnh cửa gương,
Một con anh-võ trắng dường tuyết trong.
Vách treo liễn đối hai giòng,
Phụng hoàng lan huệ ngụ trong tánh tình.
Ngọc tiêu gác để trên bình,
Nguyệt-cầm mọi vẻ phong-tranh đủ đều.
Trong khi trò chuyện dập dìu,
Phơi gan trải dạ dễ xiêu lòng người.
Nhơn khi chợt nói chợt cười,
Cạn cùng chàng mới gạn bài căn do.
Nàng càng nét mặt buồn xo,
Than rằng: « thiếp cũng ngán cho cuộc đời!
Tức vì phận, giận vì thời,
Đèn ai nấy tỏ, thôi người hỏi chi ».
Chàng nghe ngẫm nghĩ thêm nghi:
Người này chẳng phải nữ nhi vật vờ.
Hay là xe lẫn đường tơ,
Tiếc duyên tủi phận nên ngơ việc đời.
Luồn cơ chàng hỏi một vài:
« Các cao bữa trước phải người hay không?
Trong khi ngẫu-nhĩ tương phùng,
Thấy người buồn bã xui lòng thêm nghi,

Chẳng hay người bực việc chi?
Tỏ lòng cho kẻ tình-si biết cùng ».
Thưa rằng: « trong buổi lạ lùng,
Lánh nàn đâu dám cạn cùng tích xưa.
Thiếp dầu chẳng tiếc hơi thừa,
Đã đau đớn ruột thêm thưa thớt lòng ».
Hồng-Liên vừa đứng bên trong,
Bước ra rằng: « thiếp biết dòng Á-đông.
Ruột gan cũng máu anh-hùng,
Chị xin kể hết nỗi lòng gần xa ».
Sụt sùi nàng mới nói ra:
« U-lan là hiệu, Ban-nha là làng.
Quê nhà dòng họ vẻ vang,
Thói người khảng khái hùng cường lắm thôi,
Xông pha muôn dặm biên trời,
Tìm ra châu Mỹ cõi ngoài đại-hoang.
Từ ngày mở rộng bản-chương,
Cờ bay bốn biển, oai dương một thời.
Đầy vơi âu cũng đạo trời,
Dưới trên từ đấy chơi bời không lo.
Thói hư tục nát như tro,
Tiên-hoàng mê tín những trò ngu-tăng.
Giữ theo đạo cũ khăng khăng,
Chỉ dòng đạo mới là thằng nghịch-thiên.
Đem binh từng vạn từng nghìn,

Giúp cho vua Pháp giết kìn giáo-dân.
Tới đâu đốt phá không ngần,
Đàn bà con nít một lần phơi thây.
Chánh-quyền cha cố cầm tay,
Nên hư cũng mặc, dở hay cũng dầu.
Thiếu chi luật nhiệm phép mầu,
Trở nên đồ để đè đầu dân đen.
Càng ngày càng dở càng hèn,
Gà lồng cá chậu ghét ghen nực cười.
Hại dân xấu nước đủ mười,
Nước sâu lửa nóng muôn người thác oan.
Tham lam bòn vét đa đoan,
Xưa nay đâu có tân thoan nỗi này.
Trị dân thì có xiềng giây,
Đãi người thì có roi mây cạnh mình,
Lại còn tuấn pháp nghiêm hình,
Tự-do là giặc, nhiệt-thành là gian.
Dân ngu không chỗ kêu van,
Những người chí-sĩ khôn toan giúp nàn.
Nước nhà pháp-luật tan hoang,
Trong loàn ngoài giặc tràn lan cõi bờ.
Cõi ngoài thuộc-địa bơ vơ,
Âm thầm lắm chỗ dựng cờ tự-do.
Trong triều đảng nhỏ phe to,
Năm chia bảy xé còn lo nỗi gì.

Bạc vàng châu Mỹ đưa về,
Mỗi năm ức triệu ê hề biết bao.
Ngày đêm múa hát lao xao,
Buôn son bán phấn đưa vào hậu-cung.
Túi tham còn lắm lỗ không,
Chẳng ngoài nha sảnh thời trong chùa chiền.
Nước càng hết của hao tiền,
Rừng hoang ruộng bỏ biết thiên vàn nào!
Dân nghèo đói khát lao nhao,
Cướp ngang trộm dọc, ngày nào đặng yên?
Hậu-phi cướp đoạt triều-quyền,
Hàng-huynh bị đuổi lánh miền tếch xa.
Cầm quyền chẳng cố thì cha,
Tham lam góp xách phiền hà xiết bao!
Ngoài thì các nước trông vào,
Trong thời dân sự rêu rao mặc lòng.
Vậy mà trên dưới thong dong,
No say múa hát ruổi giong chơi bời.
Cha anh tôi tức sự đời,
Ngày đêm luống những ngậm ngùi thở than.
Một mình giốc gánh giang san,
Tìm người trung-nghĩa, luận bàn đặt yên.
Sắp toan bỏ dữ lập hiền,
Sửa sang chánh-trị, vẽ viên nước nhà.
Sao cho trăm họ thái hoà,

Ngậm cơm vỗ bụng chí cha mới đền.
Năm tám trăm sáu một nghìn (1860)
Nữ-hoàng vua Pháp đưa tin hội đồng.
Dặm xa vừa ruổi xe rồng,
Thình lình đất giậy đùng đùng sấm vang;
Quân dân hằm hét dầy đàng,
Nữ-hoàng vô đạo trộm toan tiếm vì.
Chúng ta toan chước bỏ đi,
Tìm người hiền chủ sửa vì trị dân.
Tin ong đồn khắp xa gần,
Phố phường thành thị một lần lao nhao.
Nữ-hoàng khôn tính thế nào,
Cắp luôn Hoàng-tử trốn vào Pháp-kinh.
Pháp-hoàng kiến cảnh sanh tình,
Vuốt râu cười gẫm máy binh đã vừa.
Liền ngày phát súng kéo cờ,
Cắp theo Hoàng-tử giáp bờ đồn binh.
Đưa thơ kể hết mọi tình:
« Thương vì lân-quốc đem binh giúp nàn.
Muốn cho mối nước đặt an,
Có ngôi Hoàng-tử định an chốn nầy.
Nay ta cáo thiệt chúng bay:
Bỏ tà theo chánh sum vầy dưới trên.
Đông-cung rất bực nhơn hiền,
Chắc hay dẹp loạn sửa quyền trị dân.

Ai dầu có chí tự tân,
Thời ta cũng mở lưới nhau một bề ».
Đương khi gió bụi ê hề,
Nửa phần chí-sĩ theo về Hoàng-huynh.
Tôn vương tức vị đành rành,
Hịch truyền kể hết sự tình gần xa:
« Xưa nay con gái đàn bà,
Trộm quyền cướp nước phép nhà nghiêm răn;
Gặp cơn quốc vận phân vân,
Giòng sang phe cố, toan bề lợi riêng;
Để cho phụ nữ cầm quyền,
Một tay ngang dọc không kiêng thí nào.
Hoàng-huynh đức trọng tài cao,
Tìm mưu xua đuổi lao đao cõi ngoài.
Bây giờ trên dưới tơi bời,
Nữ-hoàng trốn mất ngôi trời bỏ không.
Hoàng-huynh chánh vị đương trung,
Dưới theo lòng chúng, trên sùng phép công;
Lập ra chánh trị hội đồng,
Sửa sang hiến pháp, tôn sùng tổ tông.
Thương quê ai dẫu có lòng,
Xin ra giúp lúc long đong với cùng;
Ngàn năm một hội tao phùng,
Xin đừng chậm bước sinh lòng ăn năn ».
Quân dân vừa thấy hịch văn,

Xa gần nao nức một lần như sôi.
Trong khi bát loạn chi thời,
Thơ-sanh lắm kẻ xướng bài tự-do.
Những người chí nóng tài to,
Bực mình tức chí tưởng mơ cộng-hòa.
Om sòm một xướng mười hòa,
Thế như đê vỡ chảy òa khôn be.
Cọng-hòa một đảng hai phe,
Kẻ toan chậm bước người về nhảy cao.
Đua nhau nghị luận lao nhao,
Dân đen còn biết lẽ nào là công,
Cùng nhau nhóm mặt hội đồng,
Định bề quốc-thị ngỏ trông đồ hồi.
Đầu triều có gã Phong-lôi,
Đứng lên diễn thuyết một hồi rất ghê:
« Rằng nước ta lắm đảng-phe,
Dưới trên nhộn nhạo biết bề nào yên?
Ấy là vận nước ngửa nghiêng,
Hay là giận cũ thù riêng đó mà?
Muốn cho trăm việc điều hòa,
Phải cầu anh chú nước nhà mới yên.
Có con Vua Phổ rất hiền,
Nhành vàng lá ngọc vẹn tuyền mọi bên,
Rước về ta sẽ lập lên,
Chắc là nhà nước vững bền như chơi »

Mấy lời diễn-thuyết vừa rồi,
Kẻ khen rằng phải, người cười rằng bây?
Phe dân mấy kẻ đầu bầy,
Nổi gan tức trí tao mầy nói ra:
« Ví rằng: ngươi muốn thế mà,
Mắc mưu tướng Phổ sâu xa khôn lường.
Sao ngươi sợ Phổ phú cường?
Toan lòng bán nước, thiệt phường phi nhân.
Trong khi cãi cọ phân vân,
Cha tôi đứng dậy một lần thưa qua:
« Rằng xưa nữ-chúa kiêu ngoa,
Toan mưu hồi phục thiệt ta chủ-trì.
Dốc lòng chánh-thống đem về,
Thanh thiên bạch nhựt lời thề sáng soi.
Bây giờ rước chủ nước ngoài,
Chẳng lo mắc phải mưu người hay sao?
Huống chi vua Pháp mưu cao,
Đóng binh giáp cỏi toan vào hiếp ta.
Còn như Hoàng-tử nước nhà,
Lập con bỏ mẹ còn ra thể gì.
Hoàng-huynh tài đức ai bỳ,
Phía nam các tỉnh định kỳ tôn Vương.
Lập quân dĩ trưởng là thường,
Quân quyền lập-hiến là gương vững bền.
Tôi đây dám tỏ mưu hèn,

Xin người hết sức giúp quyền Hoàng-huynh. »
Hai bên ý-kiến bất bình,
Phần nhiều nghị sĩ thuận tình họ Phong.
Định mưu lập chước đã xong,
Sai quan sang Phổ bày lòng lại thôi.
Đôi bên bàn bạc vừa rồi,
Pháp-hoàng nổi giận phong lôi bời bời.
Đưa thơ qua Phổ tức thời,
Tìm mưu ngăn trở toan bài tranh đua.
Hãi hùng còn quyết hơn thua,
Nước tôi lại rước con Vua Ý-hoàng.
Phong-lôi liền bị thác oan,
Mấy phe dân đảng lắm toan tranh cường.
Lửa binh ùn dậy bốn phương,
Chánh quyền từ ấy ngày càng thêm hư.
Tân-Vương trăm chước khôn trừ.
Bực mình người cũng vội từ ngôi cao.
Trong khi giả mặt đại-trào,
Động lòng người kể tiêu tao mấy lời:
« Đã sinh ra kiếp làm người,
Công-danh phú-quí với đời cũng ham.
Quả-nhơn tài đức bất kham,
Nể vì lòng chúng phải cam nặng nề.
Tử tang từ biệt hương quê,
Nên hư sống chết cũng thề non sông.

Mong người giúp việc đỡ công,
Trẫm toan đặng tiếng dân hòng nhờ ơn.
Hay đâu chuốc gửi cưu hờn,
Làm cho đến nỗi chánh-quờn phân vân!
Quả-nhơn lo lắng muôn phần,
Mong cho lòng chúng tự tân chút nào.
Bây giờ phe đảng xôn xao,
Quả-nhơn còn biết thế nào đặng chăng.
Người xưa còn có câu rằng:
« Về làng áo gấm tình hằng vẻ vang ».
Nay ta quày quả về làng,
Mặt nào còn thấy cố-hương cho đành!
Bấy lâu nước thẳm non xanh,
Cùng người trót đã gây tình thủy chung.
Khuyên người thay mặt đổi lòng,
« Gắng lo thế nước toan mong điện bàn. »
Nói rồi lụy chảy chứa chan,
Trông chừng nước Ý băng ngàn thẳng xông.
Triều đình từ ấy bỏ không,
Bốn phương loạn lạc còn trông nỗi nào.
Cha tôi tấc dạ lao đao,
Vội vàng nhóm chúng bàn vào nói ra:
« Dân ta say đắm cọng-hòa »
Coi dèo cũng khá, nhưng mà không hay.
Xem trong thế-giới xưa nay,

Cọng-hòa chỉ có một tay Hoa-kỳ.
Cứ theo lịch-sử mà suy,
Tình dân thế nước khôn bì với ta.
Thử xem nước Mặc-tây-Ca (mexique)
Cũng là đồng dựng cọng-hòa một khi.
Nước nhà ngày một suy vi,
Nhồi xương xáo thịt ra chi đó mà.
Kể năm đặng năm mươi ba,
Đổi thay thống-lãnh biết là bao nhiêu?
Triều-đình trong một mai chiều,
Dân dầu được hưởng những điều văn-minh.
Tây-ca vốn thiệt giòng mình,
Xem trong quốc-tục dân tình như y.
Nếu nghe theo lũ thơ si,
Say mê lý-tưởng lợi gì mà mong.
Dầu cho gắng sức hết lòng
Chánh-quyền lâu cũng về trong gian hùng
Nhớ năm loạn Pháp lạ lùng,
Lòng người ai cũng ngại ngùng chữ quân.
Có ông La-đẩu tướng-quân, (La fayette)
Lòng dân gắm ghé định phần thôi tôn,
Tướng-quân từ giã ôn tồn,
Rằng: « ta tuổi trẻ chí còn cao xa. »
Hịch văn người Mỹ mới ra,
Đọc rồi đến nỗi lụy sa vắn giài.

Vội vàng khoác áo hoa tay,
Thề đem ba thước giúp người tự do.
Ghe phen biển cả một đò,
Ghe phen trăm trận quân cô một mình.
Thấy lòng người Mỹ trung-thành,
Toan đem phong-khí dỗ dành dân ta.
Bây giờ nhắm lại trông qua,
Tình dân thế nước khác xa muôn nghìn.
Phải toan rước lập Vua hiền,
Quân-quyền lập hiến vững bền biết bao!
Trưởng quân là đấng hiền-hào,
Mấy lời vàng đá gương treo hẳn hòi. »
Nói rồi lụy nhỏ vắn dài,
Xưa nay lời thẳng trái tai là thường.
Các phe thấy nói rộn ràng,
Chỉ cha rằng giặc trăm đàng mỉa mai.
Lạ chi những thói giông giài,
Một con sủa bóng trăm nơi sủa mồm.
Xui ra miệng chúng om sòm,
Kẻ toan xẻ thịt, người hằm lột da.
Lệnh truyền bắt cả anh cha,
Hay tin người phải phương xa lánh nàn.
Những người dạ ngọc gan vàng,
Bực lòng ai cũng băng ngàn tếch khơi.
Gẫm tình đáng giữ nực cười,

Chỉ trời vạch đất lắm lời nghênh-ngang.
Tự-do một giấc mơ màng,
Theo bề dân-chủ một đường đi ngay.
Người càng như dại như say,
« Cọng hòa vạn tuế » khắp đầy chợ quê.
Tay hung dạ độc gớm ghê,
Vụn vằn thịt cố; ê hề máu quan.
Thương ôi! rước hổ đuổi lang,
Còn ai biện biệt những đàng thị phi?
Triều-đình pháp-luật ra chi,
Mai chiều sửa lại đổi đi xiết nào.
Đảng phe xói móc lao nhao,
Tự-do đầu lưỡi, Đồng-bào ngoài mui.
Nhẹ sưu bớt thuế thì vui,
Trăm bề hiệu-lịnh như dùi đập săng.
Cộng-hòa chưa đặng một năm,
Đổi thay Thống-lãnh đã năm sáu lần.
Máu trôi lai láng xa gần,
Thần tự do hóa ra thần sát nhân.
Gây ra ác-quả ác-nhân,
Gẫm lời cha nói như thần lộng gương.
Cha anh lánh nạn tha phương,
Nỡ nào ngồi ngó quê-hương tan tành.
Dốc lòng ủng-hộ Hoàng-huynh,
Xô tan đảng ngụy, dựng thành phép công.

Sao cho trong lặng ngoài xong,
Sao cho trăm họ đẹp lòng tự-do.
Âm thầm nhắn nhủ hẹn hò,
Gắng người đồng chí chăm lo nước nhà.
Hịch truyền khắp cả gần xa,
Quân dân nao nức, trẻ già ngợi khen.
Ngọn cờ xấp xới mây đen,
Bóng buồm chóa mắt tiếng kèn nực tai.
Mấy phen nếm mật nằm gai,
Thua cơ đảng ngụy sắm bài tháo lui,
Căm cho tướng Phổ khéo xui,
Giùm lương giúp súng lửa vùi lại nhen.
Xông pha mấy trận khói đen,
Sa trường trôi máu ghe phen lạnh lùng.
Hai bên còn quyết thơ hùng,
Cò ngao đấu trí, ngư-ông đặng lời.
Sẵn quân Hoàng-tử đóng ngoài,
Thừa cơ kéo thẳng tới nơi Kinh-thành,
Sĩ dân hết sức dỗ dành.
Lòng người nhàm loạn đua tranh ra đầu
Phe dân mấy kẻ cầm đầu,
Thay lòng đổi mặt lạy chầu trước yên.
Cùng cha cùng bạn đồng niên,
Làm thơ gởi lại nhủ khuyên đầu thành,
Cha tôi tức trí bực mình,

Phục thơ kể hết sự tình cạn sâu:
« Làm người tiết-nghĩa làm đầu,
Nếu không tiết-nghĩa mày râu cũng hèn.
Xưa kia Túc-hạ múa men,
Xướng lên dân-chủ ngợi khen trăm đường.
Lòng tôi dốc một chủ trương,
Quân-quyền lập-hiến phép lương rõ ràng.
Lời ngay trái ý nhiều đàng,
Nhóm nhau trăm miệng dầu vàng cũng tiêu.
Chỉ tôi là giặc đương triều,
Nhiếc tôi là đứa phá liều tự-do.
Vả xưa túc-hạ hẹn hò,
Tan xương nát thịt chết cho cọng-hòa.
Bây giờ mặt dạn gối co,
Cúi đầu trước ngựa còn lo sau người.
Lòng đâu đến nỗi rã rời,
Nghĩ câu tiết-nghĩa thẹn thòi biết bao.
Phá-luân xưa trộm ngôi cao,
Oai-phi-Thổ với Phi-hào chống ngang.
Nghĩ mình thế lực khôn đang,
Lui về góc biển nghênh ngang một mình.
Trượng-phu thà thác biển xanh,
Nỡ nào vạn-thặng luồn mình cho đang.
Nay sao Túc-hạ vội vàng?
Mang đai đội mũ ngỡ ngàng xiết bao!

Lại còn lụy đến tri-giao,
Chẳng hay Túc-hạ mặt nào thấy đây?
Gió to mới biết sức cây,
Đời suy mới biết kẻ hay người hèn.
Cõi trần lòng tục khôn tin,
Bao giờ xuống lỗ vẹn tuyền mới hay.
Trong khi binh mã lày quày,
Mảnh tiên gởi lại khôn hay tận tình ».
Phục thơ vừa tới địch-dinh,
Tức gan tướng ngụy đem binh tới liền.
Trăm lần đột pháo xông tên,
Muôn người bỏ mạng trận tiền phơi gan.
Anh tôi chết giữa chiến-tràng,
Cha tôi thoát nạn tìm đường lánh xa.
Trong khi giã nước từ nhà,
Đem tôi dấu để cõi xa một mình.
Cha tôi bảy chục tiên-linh,
Xông pha muôn dặm coi mình như không.
Lăm toan kiết kẻ anh hùng,
Máu gan còn hỡi não nồng như xưa.
Huống chi tuổi thiếp đương vừa,
Nên, hư, sống, thác, thân thừa sá bao.
Bây giờ nhà nước lao đao,
Bà con tan tác xiết bao giãi dầu.
Trông trăng luống ngẩn ngơ sầu,

Nhìn hoa thôi lại thêm đau đớn lòng.
Trông về nước cũ mây lồng,
Ngồi buồn nghĩ đến chữ đồng mà đau!
Ruột gan ngày một héo dàu,
Nỗi lòng ai biết cho nhau hỡi lòng? »
Nói rồi lụy chảy dòng dòng,
Thoạt nghe chàng cũng cay lòng chua tai.
Nàng liền sửa áo hẳn hoi,
Thưa rằng: « thiếp mới gặp người tri-âm.
Hiếm vì giao thiển ngôn thâm,
Nói rồi nghĩ cũng tủi thầm thẹn riêng. »
Chàng rằng: « trí mỏng, tài hèn,
Tham nghe lời chánh vẫn quên nhọc nhằn.
Lòng nàng rộng rãi vô ngần,
Thanh-thiên bạch nhật-một lần nói ra.
Lời êm ngồi những nghe xa,
Sợ e hết chuyện hóa ra lòng phiền.
Luôn cơ lại hỏi Hồng-liên:
« Chẳng hay nàng cũng về miền Tây-Ban?
Thưa rằng: « thiếp ở Ái-lan,
Lánh nàn nên nỗi băng ngàn tới đây »
Chàng càng cặn kẽ nước mây,
Sụt sùi nàng mới tỏ bày căn-do:
« Cha tôi bán lớn buôn to,
Tâm cơ sánh dấu Ngũ-Hồ kém đâu.

Chở chuyên khắp Á khắp Âu,
Một tay trù toán người đâu dám bì.
Nước nhà gặp buổi suy vi,
Anh-hoàng dùng chước rủ bề liên bang.
Ngoài thì hợp nước rõ ràng,
Trong thì dạ hổ lòng lang khôn lường.
Ban đầu giả cách yêu nhường,
Sau ra tôi tớ đủ đường hiểm sâu.
Ghét ta binh mạnh nước giàu.
Tìm mưu ngăn trở biết đâu là ngần.
Công-thương ngày một phá dần,
Cấm bề nhóm hợp, cướp phần tự-do.
Nghề buôn nghiệp thợ héo xo,
Làm cho dân sự nhỏ to buồn rầu.
Phần thì cướp ruộng cướp trâu,
Phần thì nặng thuế nặng xâu lạ lùng.
Đẩu thăng thuế chửa kịp đong,
Đòn đau phạt nặng hãi hùng xiết đâu.
Rán cho hết mỡ hết dầu,
Rắn còn kém độc, hùm hầu thua gan.
Trải đà mười mấy năm tràng,
Những người chí-sĩ Ái-lan bực mình.
Tự-do độc-lập rấp ranh,
Ai ai quyết cũng liều mình non sông.
Sao cho mở mặt cha ông,

Sao cho dòng họ còn trông sống về?
Trời già độc địa gớm ghê,
Tai to nạn lớn tứ bề lao nhao.
Lại thêm Anh-quốc cường hào,
Tự-do hiến-pháp vét đào sạch không.
Tham lam dữ tợn vô cùng,
Khinh ta thút mút khôn trông thế ngoài.
Đất vườn mua chịu hoài hoài,
Lợi mười vốn một ép đòi phải vay.
Làm cho dân đói chết quay,
Hơn tám mươi vạn đắng cay lạ dường.
Thiếp nghe những chốn sát thương,
Kỳ-lân lánh dấu phượng-hoàng bay xa.
Loài thiêng còn xót giống nhà,
Loài người đâu nỡ nhồi da cho đành.
Lạ thay cái máu người Anh!
Chẳng thương lại khiến rấp ranh những lời.
Rằng ta ít đất nhiều người,
Muốn cho giàu mạnh tai trời cũng may.
Lời quê tiếng tục xưa nay,
Bầy tà mạnh thế, lẽ ngay cũng đuì.
Người Anh kiếm thế giục xui,
Làm cho già trẻ lăn vùi rãnh khe.
Trẻ trăng tan tác tư bề,
Mỗi năm bảy vạn ê hề biết bao.

Người sinh càng sút càng hao,
Làm ăn khốn khó lao đao kiếp người.
Gẫm thôi thói nó nực cười,
Rượu ngon nói khéo tốt tươi ngạt ngào.
Nói thì đầu lưỡi có dao,
Rượu thì lại có bỏ vào thuốc mê.
Gớm thay lòng cáo dạ dê,
Còn ai có dám lại kề nữa ư.
Nếu mà mắc nó phỉnh phờ,
Giả nghề buôn miệng toan cơ đè đầu.
Ai-cập Ấn-độ bấy lâu,
Tiếng rằng bảo-hộ còn đâu nữa nào?
Bạc vàng ra cửa biết bao,
Khác gì vét túi cống vào Luân-đôn.
Người đời lắm vẻ không khôn,
Say mê chước quỉ bôn chôn vào lờ.
Kể ngay một lúc bấy giờ,
Người bên Ấn-độ chết dư muôn nghìn.
Nước Anh có một gái hiền,
Hiểu-oanh nữ-sử vẹn tuyền thanh danh.
Làm thơ giận giỗi nước Anh,
Đãi người Ấn-độ thảm tình biết bao!
Nước Anh cậy thế mạnh giàu,
Cùng binh độc võ biết bao nhiêu lần.
Trong hăm lăm trận cất quân,

Tốn hơn tám ức muôn mâm tiền vàng.
Năm tám tám hai một ngàn, (1882)
Đùng đùng kéo thẳng binh sang Tô-hà, (Tô-di-sĩ-hà)
Bất tình nổi trận binh qua,
Có ông Võ-lại nói ra rõ ràng:
« Tự-do là đảng vẻ vang,
Phải như những đảng ưa đàng công danh.
Sao cho lánh khỏi mối binh,
Thạnh đàng buôn bán, hậu tình anh em.
Từ khi nữ chủ rơi rèm,
Tính ra vừa chẵn hăm lăm năm trời.
Động binh hai mươi bốn hồi,
Về phe bảo-thủ chỉ đôi ba lần.
Chúng ta nghĩ cũng hổ thân,
Bây giờ còn muốn phân vân nỗi gì?
Chẳng nghe thôi cũng thôi thì,
Dốc toan vứt mão lui về ẩn thân. »
Thứ xem cho đủ ngọn ngằn,
Người Anh thiệt giống tằm ăn lạ lùng.
Bây giờ gắm ghé Á-đông,
Hoành-tân ngọn khói Quảng-đông tiếng kèn.
Thừa cơ Trung-quốc hư hèn,
Chở vào nha-phiến biết thiên vạn nào!
Trẻ già mắc độc ngán ngao,
Tội kia lỗi ấy trách vào chỗ đâu?

Vậy mà tôi chúa ngọt ngào,
Rằng: « ta thương giặc khác nào em anh »
Vậy mà giả dạng văn minh,
Khoe lòng bác ái rấp ranh nỗi nào?
Tục rằng gió lộn sóng xao,
Sông sâu sạch cá, non cao hết chồi.
Nghĩ ra âu cũng việc người,
Cậy to hiếp bé đạo trời vậy vay.
Nước tôi phong tục xưa nay,
Giử lòng độc-lập tin bài tự-do.
Hiềm vì mắc tiếng nhỏ to,
Xui nên chịu sút quanh co đủ điều.
Hai trăm năm cực bao nhiêu,
Nước sâu, lửa nóng, mưa xiêu, nắng tàn.
Người Anh chẳng chút cứu nàn,
Giúp trời làm giặc tức gan lạ dường!
Lắm người kiết oán tranh cường,
Bởi vì sợ chết ra đường dở dang.
Bây giờ tìm sống không đường,
Lòng nào còn tưởng đến phường thất gia?
Bấy lâu trong nước gần xa,
Cắn răng chẳng mắt kêu ca chỗ nào.
Cha tôi tấc dạ như bào,
Quyết đem gia-sản chia trao dân nghèo.
Nghiêng nhà kết kẻ anh hào,

Toan bề độc lập mưu cao rạch ròi,
Mồ cha những đứa rước voi!
Tìm sâu vạch lá lậu bài cơ mưu!
Cha tôi liền bị giam lưu,
Anh hùng rơi lụy gây thù chung thiên.
Thiếp còn tuổi trẻ nhỏ nhen,
Bà con thút mút, của tiền khô khăn.
Có quan Tổng-đốc Ái-lan.
Tên là Lưu-hổ cũng đàn phi nhân.
Nghênh ngang cậy thế cậy thần,
Quên câu nghĩa-khí trao thân người thù.
Lỡ dường thấy thiếp đơn cô,
Vàng ròng nói ngọt ép xô thị-tì.
Sốt gan thiếp mắng tức thì:
Những quân cõng rắn lỗi nghì ông cha »
Xúc gan nó cũng nồng nà,
Kiếm điều oan-uổng xua ra cõi ngoài.
Ra đi thề thốt nặng lời,
Thân này quyết chẳng đội trời nước Anh.
Sao cho đứng lại một mình,
Đền xong nợ nước lênh đênh sá nào.
Bấy lâu lánh dấu cõi Âu,
Bây giờ sang Mỹ đợi cầu thời cơ.
Duyên trời gẫm cũng thờ ơ,
Gặp nàng tuổi trẻ tóc tơ sum vầy.

Cùng người liệt-nữ gần đây,
Một cô một cháu, vui vầy hôm mai.
Ninh-lưu vốn thiệt tên người,
Cũng trang nghĩa liệt cũng nòi lược thao.
Âm thầm khuyên nhủ đồng-bào:
« Trăm đều phải tính mưu cao vạn toàn ».
Không dè những lũ lăng loàn,
Vô mưu vô kế chỉ toan làm càn.
Rủ nhau bắn dọc đâm ngang,
Giết quan hiền-thú trong đàng Vô-lam.
Làm cho thiên hạ om sòm,
Chỉ người nước Ái là chòm sát nhơn.
Vậy nên chí-sĩ nhơn-nhơn,
Mấy phen rơi lụy mấy phen đau lòng.
Người tôi còn chút trông mong,
Cậy nhờ nước lớn đem lòng xót lây.
Sao cho cởi trói cởi dây?
Sao cho thoát khỏi chốn này lầm than?
Bao giờ đã đặng lá gan,
Dầu mà thịt nát xương tan sá nào.
Thiếp xem sách vở biết bao,
Xưa nay đâu có lao đao nỗi này.
Vậy nên lo lắng đêm ngày,
Ngồi buồn ngẫm nghĩ dạ này khôn nguôi.
Nghĩ thôi càng gớm cho đời,

Đè hèn hiếp yếu cũng coi làm thường.
Càng trông càng chán chê dường,
Bỏ bề nhơn-nghĩa, theo đường dã man.
Vậy nên chí-sĩ thở than,
Ngày đêm gắng gỗ Ái-lan đó mà. »
Một thiên máu liễu hồn hoa,
Tiếng trong gan ruột mửa ra rõ ràng.
Chàng càng đau ruột nhức gan,
Lắc đầu luống những thở than vắn dài.
Hồng-liên lại hỏi một hai:
Bữa qua xem báo có người biển đông.
Rủ nhau lên các ngồi trông,
Nhóm bàn việc nước căm lòng người Anh.
Một người đứng hỏi rõ rành,
Ái-lan độc-lập các anh thế nào?
Hai người hăm hở rằng nào!
Mang gươm thẳng tới xông vào giúp chơi.
Thiếp nghe đặng mấy nhiêu lời,
Âm thầm lòng cũng cảm người nghĩa cao.
Chẳng hay người ấy thế nào?
Xin chàng hỏi lại trước sau cho mà. »
Chàng liền vội vã thưa qua:
Một người đứng hỏi thiệt là tiểu sanh. »
Nàng nghe chàng nói đinh ninh,
Bắt tay nhìn mặt giọt tình ngổn ngang.

Rằng: « nay may gặp đặng chàng,
Bao giờ thiếp đặng vẻ vang như lời?
Thương ôi! tức tối cuộc đời! »
Nói rồi lụy nhỏ vắn dài khôn ngăn.

  1. (người làng) nàng U-lan là người Tây-ban-nha, thấy Tán-Sĩ tóc đen mắt nhọn ngỡ là người nước mình.