Giai nhơn kỳ ngộ/Hồi thứ tư

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Hồi thứ tư

Cách ngày đi dạo tình cờ,
Nghe người rao báo u ơ mấy hồi.
Luôn cơ chàng cũng mua chơi,
Thình lình trông thấy mấy lời dở dang.
Rằng: « phe độc-lập Ái-Lan,
Có người thủ lãnh tên nàng Ba-ninh.
Bệnh nguy nàng đã bỏ mình,
Tuổi vừa hâm tám nghĩ tình mà thương! »
Xem rồi càng ngán ngao dường,
Cúi đầu đứng ngẩn giữa đường giờ lâu,
Kiếp người càng nghĩ càng đau!
Bực tình lại nhớ lắm câu mơ màng.

Hồng-liên lại với U-Lan,
Bấy lâu chưa rõ đôi đàng tử sanh.
Bây giờ còn một Ba-ninh,
Rủi ro nàng cũng chôn linh suối vàng.
Đạo trời lắm nỗi dở dang,
Ghen người trung-nghĩa giúp đàn hung-gian.
Thác oan uổng kiếp thầy Nhan,
Những quân đạo Chích sống tràn thế-gian.
Lắm tài trời cũng ngứa gan,
Hay là kiếp trước có oan-khiêu gì?
Người xưa nói có nhằm chi,
Thương lành ghét dữ cũng nghi đạo trời.
Trong lòng thổn thức trăm hồi,
Liền đêm hôm ấy tức thời phải đau.
Chuyện nàng đồn nực bấy lâu,
Phải chi chuộc đặng người hầu trăm thân.
Vừa ngày tống táng linh thần,
Muôn người đưa đón rần rần như mây.
Quan tài từ chốn riêng tây,
Đưa về Phủ-Bí gần đây quàn mồ.
Trong khi đưa đón bồ xô,
Chàng còn phải bệnh khôn hồ dễ đi.
Một mình năn nỉ thầm thì,
Vẻ vang kiếp gái một thì mấy trang.
Nếu không dạ sắt gan vàng,

Sao cho thiên hạ kẻ thương người sầu.
Xưa nàng có nói mấy câu.
« Người đời danh tiếng đáo đầu mới hay ».
Mấy trang nữ-kiệt xưa nay,
Như nàng đã đáng cao dày bia danh.
Một mình nghĩ quất nghĩ quanh,
Trông ra ác đã ngậm vành non tây.
Bốn bề lặng gió tan mây,
Trời xanh một vẻ tròn xây nửa vành.
Thẩn thơ đoái quắt trông quanh,
Một vầng trăng bạc gác nhành tòng sao.
Nương song mượn thú đăng cao.
Chạnh tình nhớ tới cố-giao đau lòng.
Người thời góc biển long đong,
Người thì một giấc chín dòng suối sâu!
Ngổn ngang trăm mối tình đầu,
Nỗi mình càng nghĩ càng sầu thiết tha!
Ngậm ngùi nhớ đến nàng Ba,
Quan nàng qườn táng xa xa bên cồn.
Tình người dẫu mất như còn,
Phải qua thăm viếng cho tròn nghĩa xưa.
Hai bờ cỏ đón cây đưa,
Băng ngang lối núi càn bừa bờ khe.
Bóng trăng lỗ đỗ lá che,
Đầu đàng chấp choáng đáy khe lập lòa.

Ro re nước chảy gần xa,
Bốn bề quạnh vắng thiết tha một mình.
Dò lần tới chỗ quàn linh,
Bóng người thấp thoáng thất kinh hãi hùng.
Cúi lưng rán mắt nhìn trông,
Bóng trăng rủi phải một vồng mây đen.
Tối thui sức mắt khôn nhìn,
Mỉa mai áo trắng tóc đen chừng chừng.
Bóng đèn chấn lấp ngang lưng,
Nhìn lâu lấp láng như dừng như đi.
Gió đâu một trận ram ri,
Lá kêu rúc rắt tức thì bóng tan.
Rùng mình chàng cũng nớm gan,
Trong lòng hồi hộp nghĩ càng nhớ xiên.
Lúc còn tuổi trẻ nhỏ nhen,
Nghe người nói chuyện cửu-nguyên lắm lời.
Bấy giờ cho chuyện trò cười,
Thình lình sực nhớ rã rời tay chưn.
Chàng liền ngẫm nghĩ tần mần,
Quỉ ma cũng bởi tâm thần hay nghi.
Trước quan bước lại tức thì,
Vỗ quan than khóc liền quì đọc văn:

Văn rằng:
Năm 1882 ngày tháng,

Ba-ninh-lưu nữ-sử, trang liệt-nữ Ái-Lan. Thời mạng dở dang, đau sầu chết thảm. Tuổi vừa hâm tám, thảm thiết càng thương! Cha Tướng-quân danh tướng vẻ vang; mẹ cũng đáng một trang độc-lập. Anh cháu giồi giập, gánh vác giang san, máu nóng một đàn thơm tho non nước.

Gặp cơn tráo chác, nước cũ lao đao. Kẻ chiên người xào, dân nghèo kêu réo, ruột nàng khô héo, vượt biển băng ngàn, dạ ngọc gan vàng, nằm gai nếm mặt. Khớp long giàm trật, nhờ cậy tay nàng.

Thời vận ngửa ngang, xui nàng giục giã, cuộc đời lã chã, đau đớn lắm ôi!

Linh cữu phát từ nơi Tân-phủ, qua Nam-bí, trải đủ dặm ngàn, kẻ khóc người van, rầm trời giậy đất. Khách qua đàng rưng rưng nước mắt. ngựa kéo xe giờ giật cúi đầu. Gió thảm mưa sầu, đau lòng quá nhẽ!

Thương nàng tuổi trẻ, giữ vẹn tám tình. Hết thảo hết thành, trong mình trong trẻo, ăn ngọt nói dẻo, lớn nhỏ đều thương. Còn như văn-chương, phun châu nhả ngọc. Tay biên miệng đọc, từ điệu vẻ vang; hoặc ca hoặc đàn, trăm nghề nhiệm nhặt. Trời già ghen vặt, Giết cạn người khôn.

Nhớ mấy tiếng linh-hồn nàng nói, đến bây giờ còn giói bên tai. « Việc đâu biết đến mai đến mốt, kiếp phù-sanh một chốc mà thôi. Bữa nay chàng còn ngồi với tôi, sang năm đâu đã chắc không phải là người Đông-Hải. Bây giờ thiếp còn ăn còn nói, ngày mai đâu đã chắc không vào cõi huỳnh-tuyền ». Gẫm mấy lời thiêng, hóa ra câu sấm;

Thương ôi! Đất khô một nắm, cây cỏ tứ bề. Làng cũ nàng về, bao giờ thấy mặt? Lòng tôi giờ giật, lại nhớ lời nàng: « Trong cuộc đời phải trái nhiều đàng, đến nhắm mắt đậy quan mới chắc ».

Thương ôi! suối vàng một giấc, bia đá ngàn thu, ấy nữ-trượng-phu, xin nàng nhắm mắt; Thảm lắm ôi!!! đám mây phủ bóng trăng soi léo lắt, màu đêm khuya tiếng suối khóc nỉ non.

Cây phất phơ gió thổi thon von, ao lạnh lẽo sương sa lác đác. U Lan khô mà phụng hoàng tan tác, Hồng-liên héo mà oan-ương dật dờ. Ngày tháng khôn chờ, sầu nhiều vui ít; bấy lâu vấn vít, một chốc rã rời, nhớ cảnh nhớ người, đau lòng xót dạ. Lụy rơi lã chã, thảm lắm nàng ôi!

Thương thay, Thượng Hưởng.

Đọc rồi ê ủ tâm thần.
Cúi đầu đứng sững chần ngần giờ lâu.
Bốn bề trăng sáng mây thâu,

Một màu sơn-thủy vẻ hầu kém tươi.
Sau bia lấp ló bóng người,
Mặt trong mùi hạc mắt ngời lụy giao.
Chàng còn hoảng hốt hãi hào,
Người đà bước tới hỏi chào một khi,
Rằng: « chàng Tán-sĩ đó chi?
Hồng-liên là thiếp khi thì tới đây ».
Nhìn nàng chàng cũng hỏi ngay:
« Ở đâu mà lại tới đây bao giờ?
Nhìn nhau luống những bơ sờ,
Lạ lùng gặp gỡ còn ngờ chiêm-bao.
Lòng đây trăm mối xôn xao,
Vui buồn còn biết nói sao bây giờ? »
Nàng rằng: lòng cũng như tơ,
Ngàn câu trăm chuyện bây giờ sạch không ».
Chàng rằng: « lắm lúc mong trông,
Nàng Lan gã Phạm người hòng ở đâu?
Xin nàng cặn kẽ gót đầu ».
Thở than nàng mới lắc đầu nói ra:
« Cách nhau chưa mấy lúc mà,
Ba chìm bảy nổi kể đà lắm phen.
Xiết bao lăn lóc ngửa nghiêng,
Nhắc ra như chuyện cửu-nguyên lạ đời ».
Thoặt nghe chàng cũng rụng rời.
Vội vàng hỏi: « vậy hai người thế nao? »

Nàng thưa mấy tiếng ngán ngao:
« Nếu lau lưỡi thiếp thêm đau lòng chàng ».
Chàng còn muốn hỏi kỹ càng.
Cất tay nàng mới chỉ ngang nhà quàn.
Than rằng: « cũng bạn đá vàng,
Mà nay đến nỗi đoạn tràng vậy sao? »
Chàng rằng: « tôi cũng sơ giao,
Thấy người bạc mạng còn đau đớn lòng.
Huống chi một núi một sông.
Ruột gan đã chạm chữ đồng thắm sâu ».
Nàng rằng: « thiếp bước lên tàu,
Tai nghe mấy tiếng ruột đau trăm hồi.
Hỏi thăm linh-sấn gần nơi,
Luôn đêm thiếp tếch một hơi hãi hùng.
Trong tay cầm nhắm bông hồng.
Toan đem bông mới ngụ lòng cỏ tươi.
Xa xa trông thấy bóng người,
Sau bia thiếp núp để coi cho tường.
Người liền bước tới vội vàng,
Trước nơi linh-cữu chàng ràng chẳng đi.
Thiếp càng nhìn lại nhìn đi,
Bóng mây bóng bụi rậm rì khôn phân.
Giờ lâu nghe tiếng đọc văn,
Tên nàng tên thiếp vân vân mấy lời.
Ngửa nghiêng trách đất than trời,

Vái van vân vĩ khóc rồi thở ra.
Thiếp còn lượng lự gần xa,
Bỗng đâu trăng tỏ nhìn ra mặt chàng.
Lòng đây còn chút ngại ngàng,
Chẳng hay đêm vắng sao chàng tới chi? »
Chàng rằng vì chút tình si,
Trông trăng nhớ bạn nên đi viếng người
Bây giờ vắng vẻ không ai,
Trăng trời đứng đó mồ người nằm đây!
Trăng dòm họng, mồ kê tai,
Biệt-ly nàng hỡi cạn còi nghe thôi ».
Ngần ngừ nàng cũng ừ xuôi,
Hai người chiếu đất cùng ngồi cỏ xanh.
Chàng rằng: « vương vấn chút tình,
Ngày trông đêm nhớ bực mình ba xuân ».
Nàng rằng: « dạ thiếp khôn cân,
Bảy năm vắn chẳng, một tuần dài ghê ».
Chàng rằng: « ngày trước trở về,
Bữa sau lại tới sông Đề ngẩn ngơ.
Mây mưa ùn phủ bốn bờ,
Gió lu vù thổi sóng chơ vờ cao.
Áo quần ướt dã ướt dào,
Đò qua không được cắm sào một bên.
Đêm về bãi hoãi rĩ rên,
Chiếu giường trằn trọc mùng mền lơ chơ ».

Nàng rằng: « đang lúc bấy giờ,
Chị Lan mong mỏi chầu chờ chàng qua,
Phạm-Khanh nấu cá làm gà,
Thiếp thì trải chiếu lân la đợi chàng.
Hay đâu mưa nắng bất thường,
Trông mê trông mỏi mà chàng chẳng qua.
Chị Lan vừa được thơ nhà,
Rằng quân mật-thám bắt cha đi rồi.
Xem thơ cất tiếng: than ôi!
Ngậm ngùi chỉ mới kêu tôi cạn cùng:
« Vắng thân nếm miếng đỉnh chung,
Xưa nay cây lặng gió rung là thường.
Thoi đưa thấm thoát bóng dương,
Sân Lai đâu dễ thường thường thừa hoan.
Nay cha gặp bước gian nan,
Lòng con đâu nỡ ngồi an đấy mà.
Dốc lòng trở lại nước nhà,
Tìm mưu kiếm chước cứu cha mới đành.
Ví dầu mà sự không thành,
Cũng liều một thác cho đành dạ con,
Đi nầy lắm nỗi thon von,
Chia tay chưa biết hẳn còn gặp nhau!
Gia-tài nhiều ít để sau,
Nghe tin thiếp chết nàng hầu phân chia,
Giúp cho tổ-quốc lưu-ly,

« Thiếp dầu thác đó khác gì sống đây ».
Mấy lời chỉ kể riêng tây,
Trái tai tôi cũng ngà ngầy đôi câu:
« Hai ta biết chắc đã lâu,
« Ruột gan sống chết ghi sâu chữ đồng.
Chị nay liều phận má hồng,
« Cắp ba tấc mũi vào vòng cọp beo.
Một thân trải đủ hiểm nghèo,
« Tôi đâu há nỡ ngồi quèo khoanh tay.
Cọp beo chị chẳng nớm tay,
« Lẽ nào tôi lại dám gay go lòng.
Còn như nhà cửa lòng dòng,
« Cậy nhờ chàng Phạm giữ dùng thời nên ».
Phạm-Khanh tức tối nói lên:
« Cớ chi nàng lại xem hèn tôi sao?
Dầu tôi chút phận lao đao,
« Nhưng trong gan ruột đính giao cũng tình.
Hai nàng đã quyết liều mình,
« Một lòng vẹn hiếu, một tình vẹn trung.
Nghe thôi ai cũng động lòng,
« Huống chi tôi cũng trong vòng chúa tôi.
Xưa kia Khổng-Mạnh có lời:
« Lắm tên vô dõng, lắm người xả sanh.
Phen nầy tôi nếu lánh mình,
« Một đời xấu hổ học hành bỏ đâu?

Nhà nho hổ mặt nhìn nhau,
« Những người nghĩa khí cất đầu nhìn ngơ.
Sau ra Tán-sĩ nghi ngờ,
« Cho tôi là đứa vật vờ đó thôi.
Mặt nào còn thấy với đời?
« Xin nàng sao cũng cho tôi đi cùng ».
Trong khi giận nói lẫy lừng,
Coi ra chí gã hào hùng lắm thay!
Nàng rằng: « hai gã tỏ bày,
Nghe ra thực cũng lẽ ngay rạch ròi,
Nhưng mà nghỉ lại cặn còi,
Non sông gánh vác chơi vơi một mình.
Bây giờ thương chút lòng thành,
Giúp thân sâu kiến, liều mình phụng loan.
Thử ngồi tính nhặt tính khoan,
Tình riêng nghĩa cả đâu toàn là hơn.
Nghĩ mình chút phận cô đơn,
Lúc còn mười tuổi gặp cơn lỡ làng.
Tình người thế đất ngơ ngàng,
Trong lòng cũng muốn hai chàng đỡ tay.
Nàng Hồng qua lại xưa rày,
Ba năm tính đã đến nay chắn chòi.
Phạm-Khanh năm đã chẵn hai,
Cùng nhau qua lại rông rài bấy nay.
Bây giờ rẽ mặt chia tay,

Trong lòng nghĩ cũng đắng cay trăm chiều.
Lạ chi hai gã nâng niu,
Vì mang chút nghĩa nên liều tấm thân.
Hiềm vì còn chút phân nhân,
Lồng ta rằng phải miệng trần chê bây.
Chi bằng rốn ở lại đây,
Giữ gìn vàng đá dựng gầy non sông.
Trời già nếu dẫu có lòng,
Chúng ta may cũng trùng phùng có khi.
Hỡi xin nghĩ lại nghĩ đi,
Phải rồi ta tính vội chi đó mà.
Phạm-Khanh vùng vẫy thưa qua:
Sân Tần xưa có Kinh-kha bỏ mình.
Tướng Hàn ở mấy lớp thành,
Mà ngươi Nhiếp-chánh coi mình như không.
Xưa nay lắm kẻ anh-hùng,
Vì câu nghĩa-khí động lòng người ta.
Gan nồng núng đến trời già,
Ra điềm mống trắng xuyên qua mặt trời.
Tiếng thơm còn để muôn đời,
Sử xưa còn hỡi có người chép tên.
Kiếp người sống chết hư nên,
Xanh xanh đã chủ ở trên có trời.
Lắm người cui cút một đời,
Đau ngang chết tức rủi thời cũng chôn.

Tục rằng sống chết nhiều môn,
Nhẹ lông chim chích, nặng hòn Tán-viên.
Lòng ta hỏi lại đã yên,
Dầu cho vượt biển băng miền sá bao.
Ngày sau muôn một thế nào,
Bụng làm dạ chịu nàng rào đón chi.
Cạn lời thiếp cũng vân vi,
Giục nàng sửa soạn ra đi cho rồi.
Bằng lòng nàng cũng như lời:
Rằng: « này đêm cũng tối rồi đã lâu.
Bao nhiêu chước nhiệm mưu sâu,
Chúng ta đợi xuống tới tàu sẽ toan.
Hành trang dọn dẹp đã an,
Nàng còn nương bóng thở than một mình.
Thiếp liền cặn kẽ ngọn nghành,
Nàng rằng: còn vướng chút tình bấy lâu.
Thình lình sấm sét rơi đầu,
Muốn quên mà dạ quên đâu cho đành.
Xót thay cho khách đa tình,
Tìm hoa sau lại vin nhành xiết bao!
Bây giờ biết tính làm sao?
Lòng nầy lắm nỗi ngán ngao lạ dường.
Thiếp liền hỏi lại rõ ràng:
Vậy thì chị biết ngụ chàng ở đâu?
Nàng rằng bởi vậy mới sầu,

Nếu cho có biết đi đâu đặng giờ?
Ví bằng vội vã viết thơ,
Sợ e đến đỗi sự cơ lỡ làng.
Nàng càng ngơ ngẩn bàn hoàn,
Thiếp rằng: việc ấy thôi nàng đừng lo.
Tình đầu mỗi nỗi nhỏ to,
Viết thơ để lại giao cho người nhà.
Nàng ngồi ngẫm nghĩ gần xa,
Tay liền cất viết thảo ra mấy hàng.
Thơ rồi gà đã gáy tan,
Nàng liền gọi tớ kĩ càng dặn qua.
Phạm-Khanh bước lại bên nhà,
Tới nơi gốc liễu vạch ra chữ đề.
Thiếp xem chẳng biết chữ gì,
Thấy ba hàng mực đen sì mà thôi »
Nói rồi dứt tiếng nghỉ hơi,
Giây lâu nàng lại trông trời nói ra:
« Kìa kìa xế bóng ngân-hà,
Trăng vừa chen núi trời đà rạng đông.
Muốn cho cặn kẽ thủy-chung,
Xin về nhà cũ thung dung sẽ bày.
Chàng rằng: « cắp cánh choàng tay,
Người tôi trông thấy nhạo đay trăm đường.
May nay lại ở Tây-dương,
Không cơn, nhưng sợ cho nường tiếng tăm ».

Nàng rằng: « tiếng lại bao lăm,
Sợ e chim phụng chỉ thèm bông lan.
Sen thì sóng dập bùn tràn.
Còn ai có muốn mơ màng đến chi!
Chị Lan nếu có đây thì,
Lọt tai mấy tiếng nằn nì lắm thôi ».
Đi đi nói nói một hồi,
Đầu non khỏi bắc, chưn trời rạng đông.
Lần lần bước tới bờ sông,
Đò thuê một chiếc thẳng trông bến Đề.
Đò qua mấy khúc sơn khê,
Tiếng chim bóng bụi tứ bề lao nhao.
Cất tay nàng trỏ từ cao,
Rằng: « chàng đố biết nhà đâu kia là? »
Chàng rằng: « tám kiếp thằng A[1].
Ấy quân bán nước dấu nhà còn đây.
Sông Đề cũng đến bây chầy,
Ghé đò đỗ bến dắc dây vào nhà.
Liễu dương mấy cụm là đà,
Dây bìm phủ vách, cỏ gà lợp sân.
Nóc nhà chim sẻ kêu rân!
Nàng liền gõ cửa mấy lần kêu lên.

Tớ nhà nghe tiếng ra liền,
Cất đầu trông thấy nàng Liên dứng dừng.
Nhà trong bước tới dừng chưn,
Nàng rằng: « có rượu thì bưng đây mà! »
Tớ rằng: « từ thuở cô ra,
Mấy chai rượu chát để nhà còn đây ».
Chàng rằng: rượu thịt hơi chầy,
Xin nàng kể chuyện nước mây cho tường ».
Nàng liền cất giọng thảm thương,
Rằng: « tôi cũng muốn vội chường chàng nghe.
Tức vì họng nghẹn lưỡi đè,
Vậy nên đến đỗi kè nè đấy thôi.
Vả chăng nghe đặng mấy lời,
E khi cũng đứt mấy hồi ruột non.
Thiếp nên kiếm chén rượu ngon,
Mượn hơi một tí cho giòn nói năng ».
Chàng liền giục giã hở răng,
Sụt sùi nàng mới nỉ năng mấy lời:
« Nàng Lan gã Phạm hai người,
Đã rơi hàm cá; còn tôi một mình.
Gặp chàng khôn nỗi mặt nhìn ».
Dứt lời nàng vội ém liền lụy châu.
Chàng nghe như sét vào đầu,
Nát tương gan ruột, héo nhầu tay chưn.
Giờ lâu ngồi dững dừng dưng,

Hỏi: « sao nàng khóc lừng lừng lắm thôi?
Người đời một thác là rồi ».
Nhìn chàng nàng lại nhỏ hồi lụy son,
Rằng: « nàng dầu khóc lở non,
Nàng Lan gã Phạm có còn đặng không?
Chi bằng ta hỡi thung dung,
Nhắc ra sự tích anh-hùng nghe chơi ».
Tớ vừa bưng rượu tới nơi,
Uống rồi nàng mới tức thời nói mau:
« Bấy giờ vội vã xuống tàu,
Kéo neo tàu cũng chạy mau tức thì.
Sân tàu rũ dạo một khi,
Cất tay nàng trỏ mù ti mấy bờ.
Rằng: « kìa Phủ-bý trơ trơ,
Chỗ ai ở đó bao giờ gặp va?
Sông Đề khi trở lại nhà,
Không thì chín suối họa là gặp nhau! »
Nói rồi mặt héo mày xàu,
Chàng rằng: « nếu vậy giống nhau quá mà! »
Nàng rằng lúc ấy cả ba,
Xúm nhau ngồi lại bàn ra nói vào.
Rằng nàng bỏ nước đã lâu,
Bây giờ ai có nhìn đâu đặng người.
Giả tuồng là khách chơi bời,
Tùy cơ ứng biến tới nơi sẽ bàn.

Thuyền ra cách vực xa ngàn,
Sao sưa, trăng tỏ, mây tàn, sóng êm.
Thiếp rằng: chốc đã ngàn đêm,
Bây giờ chàng chắc ngồi thềm nhà ta.
Bên rào lan héo thiết tha,
Dưới hồ sen rũ mưa sa dầm dề.
Quê xưa cảnh cũ bốn bề,
Tưởng chàng trông thấy ủ ê xiết nào. »
Nàng rằng: « nằm thấy chiêm bao,
Cùng chàng dìu dắc chơi vào Bồng-lai.
Trong khi đẹp dạ thỏa hơi,
Thình lình tiếng sóng kêu dài thất kinh.
Bốn bề gió mát trăng thinh,
Ngậm ngùi lại nhớ chút tình đâu đâu »...
Mũi tàu đứng ngẩn giờ lâu,
Cất đầu nàng lại âu sầu nói ra.
Rằng: « nay nghĩ đặng bài ca,
Lặng nghe ta sẽ xướng ra rõ ràng. »
Nàng liền cất giọng vẻ vang,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Thiếp còn chép dạ bấy lâu,
Hỡi xin ca lại gót đầu nghe thôi.

Ca rằng:

1. — Ta nhớ đâu, nhớ câu cố-thổ,

Muốn theo qua, trải đủ chông gai.
Kiếp phù-sinh lắm nỗi trần ai,
Khách bô-tẩu luống than dài thở vắn.
Non nước tan tành rồng chạy vắng,
Cửa nhà xơ xác én bay xa.
Cảnh tang du thêm cảm nỗi cha già,
Gan thiết thạch, tiết bá tùng, Trải sương tuyết phong ba còn giữ chắt,
Ôm khí chánh ngang trời dọc đất,
Ba tấc gươm thề chém lũ yêu tinh,
Gần xa ai cũng cảm tấc thành,
Trời sao nỡ cánh hồng vương lưới cá?
Trăng sáng giữa trời soi khắp cả.
Gió xao mặt nước sóng lông tông,
Đầu tàu đêm vắng ngồi trông!

2. — Ta nhớ đâu, nhớ cha tuổi tác,
Muốn theo qua, man mác trời cao.
Đêm năm canh mơ mẩn giấc chiêm bao,
Lụy muôn hộc dều dào khôn ráo mắt.
Tâm Liệt nữ sương thu soi phắc phắc,
Mũi Kinh-khanh gió bắc thổi ù ù.
Tuổi dầu trẻ, sức dầu mọn, kế dầu ngu,
Giọt máu đỏ phó quỉ thần soi xét.
Hồn cố-quốc mấy năm viễn biệt,

Giấc hương-quan muôn dặm mơ màng.
Bạn đồng-tâm rặt những khách tha-hương,
Đành có chị hằng soi tấc dạ.
Trăng sáng giữa trời soi khắp cả,
Gió xao mặt nước sóng lông tông.
Đầu tàu đêm vắng ngồi trông!

3.[2] Ta nhớ đâu nhớ đầu biển Á,
Muốn theo qua sóng khỏa ngàn trùng.
Bốn ngàn năm còn giõi dấu Lạc-Hồng,
Kìa biển kìa núi kìa sông kìa đô ấp.
Từ Đinh-hoàng dựng cờ độc-lập,
Đến Nguyễn-triều thâu thập cõi Nam-trung.
Trải xưa nay lắm sức anh hùng,
Liều trôi máu vẽ nên màu Cẩm-Tú.
Hai ngàn vạn đồng-bào sanh tụ,
Sự văn-minh đem đọ kém gì ai?
Quyết thề lòng dựng lại cảnh Bồng-lai,
Chén rượu câu thi cười hã hã.
Trăng sáng giữa trời soi khắp cả,
Gió xao mặt nước sóng lông tông.
Đầu tàu đêm vắng ngồi trông!

4. — Ta nhớ đâu nhớ người Đông-Hải,

Muốn theo qua quan-ải cách bao nhiêu:
Ngày chàng về áo gấm mĩ miều,
Chính lúc thiếp hang beo thề bỏ mạng.
Nam bắc đôi đường phân én nhạn,
Mỹ Âu muôn dặm cách vân yên.
Nhớ xưa kia non nước quầy duyên,
Xuân sắc một trời thêm diệm dã.
Lúc trăng sáng tìm hoa đố lá,
Khi gió trong chén rượu câu thi.
Người đâu đâu gặp gỡ làm chi?
Nay luống khiến lụy biệt ly rơi lã chã!
Trăng sáng giữa trời soi khắp cả,
Gió xao mặt nước sóng lông tông.
Đầu tàu đêm vắng ngồi trông.

Bốn thiên như khóc như cười,
Giọng oanh mấy khúc càng tươi càng mầu.
Mỉa mai sương giục còi thu,
Dật dìu tiếng suối gió ru đêm rằm.
Chàng rằng: « vấn vít tơ tằm,
Mối tình nghĩ đến như bằm ruột gan.
Từ khi non nước gặp nàng,
Khi thi, khi rượu, khi đàn luôn luôn.
Trong khi dìu dắt dạo vườn,
Cảnh vui nàng lại than buồn mấy câu:
« Vui nầy đặng bấy nhiêu lâu,

Mà nay đến đỗi chôn sầu chín sông!
Kìa nhà, kìa núi, kìa sông,
Mà người vắng vẻ đau lòng xiết bao! »
Nàng liền kể chuyện dưới tàu,
Rằng: « đương lúc ấy lắm câu ngỡ ngàng.
Tình cờ lại gặp một nàng,
Bắt quàng trò chuyện, đủ đàng thảm thương.
Kể luôn đến chuyện Đông-Dương,
Ngợi khen phong-cảnh nước chàng vẻ vang.
Khen người Nhật-bổn có gan,
Nhắc ra hình trạng giống chàng như y.
Nhưng mà bụng thiếp còn nghi,
Tuổi tên nàng ấy chàng khi biết mà ».
Chàng rằng: « lũ quỉ quân ma,
E khi kiếm chuyện dò la sự nàng ».
Nàng rằng: « thiếp cũng nghi nan,
Vậy nên chẳng dám nói bàn giở giang.
Thôi thôi bớt nói bắt quàng,
Để xin kể chuyện đi đường bấy nay.
Tám ngày vừa tới nước Tây,
Vào thành kiếm chốn quán đầy nghỉ ngơi.
Còn e có kẻ biết người,
Nhủ nàng giả bệnh thiếp chơi ngoài thành.
Trường tù nhắm thế xem hình,
Cha nàng giam ở bên thành phía tây.

Bốn bề hào xẻ thành xây,
Cánh chim khó với, thang mây khôn lường.
Xưa nay kẻ tiện người sang,
Trong vòng nước lửa chôn xương muôn vàn.
Cha nàng cả chí to gan,
Ghét gơ ngàn nỗi, giữ giàng trăm phương.
Vậy nên túng kế lo lường,
Trăm toan ngàn liệu khôn phương cứu ngài.
Lần là mấy bữa rông rài,
Thăm nom tin tức lắm lời đâu đâu.
Người thì nói hỡi còn đau;
Người thì nói chẳng mấy lâu bị bình.
Nàng thì nhức nhối trong mình,
Giục ngay chàng Phạm ra thành dò la.
Cách đôi ba bữa dần dà,
Biết ra chúa ngục thật là họ Vương.
Thiếp bày một kế hoang-đường,
Mượn mưu Trịnh-Tụ đưa nường Yên-chi.
Nàng rằng: « tuy chuyện nữ-nhi,
Bây giờ đã gấp quản chi đặng mà.
Thuở xưa vua Nã thứ ba,
Cùng ông Ba đốn trốn ra cũng thường.
Trong cơn túng nước cùng đường.
Dù hay dù dở cũng trườn cho xong »,
Phạm rằng: « nếu để long đong,

Việc người thay đổi khôn dùng mưu cao.
Chi bằng cứ việc làm nhào,
Nên hư phú mặc cao cao có trời,
Họ Vương tánh khí bốc rời,
Tham tiền mê sắc, vợ người thì không.
Nay còn kiếm chác lông ngông,
Gẫm ra cái kế nàng Hồng cũng hay ».
Lân la qua đặng mấy ngày,
Thiếp ăn mặc đẹp chơi ngay bên thành.
Trông ra bốn phía vắng tanh,
Một vài xe ngựa quẩn quanh xa gần,
Bỗng đâu ngui ngút bụi trần,
Một xe độc mã rần rần tới nơi.
Trên thì chúa ngục đương ngồi,
Mừng thầm thiếp mới lần hồi gần bên.
Mỉn cười liếc mắt trông lên,
Giả đò lớ quớ như quên chặng đàng.
Lanh quanh ước nửa dặm tràng,
Mặt trời chen núi ráng vàng lồng mây.
Bước gần thiếp mới xấp tay,
Vin cương dừng ngựa tỏ bày nể nang.
Rằng: « tôi người Mỹ mới sang,
Ra chơi rủi phải lạc đàng bơ vơ.
Đường cùng ngày tối dật dờ,
Khôn lui khôn tới u ơ một mình.

Thiếp nghe phép nước văn-minh,
Đàn bà tăm túi một mình không đi.
Xin ngài thương chút ngu-si,
Đem lòng trỏ nẻo giúp khi lỡ đàng.
Ngài dầu thương phận lỡ làng,
Tấm lòng cảm tạ ngàn vàng khôn đang.
Va nghe mấy tiếng nhẹ nhàng,
Rằng: ta chúa ngục tên rằng Vương-la.
Trời chiều đã quoáng mắt gà,
Thấy nàng lẫn vẫn lòng đà sinh nghi.
Phải chi nàng nói khi thì,
Sao cho đến đỗi li bì ủ ê.
Nếu nàng chẳng ghét lí-lê,
Lên xe tôi hỡi đưa về tận nơi.
Cám ơn thiếp mới lên ngồi,
Trong xe nhìn nhỏ ra người dễ chơi.
Xe đi liền cũng tới nơi,
Bắt tay va nói lôi thôi mấy lời:
Rằng: sau hỡi tới thăm chơi,
Xin nàng trân trọng thời tôi bằng lòng.
Thiếp liền biết lão mắc vòng,
Thưa rằng: ngài cũng người trong ân-tình.
Tối tăm giúp kẻ linh đinh,
Ơn sâu nghĩa nặng chút tình xin mang.
Kính ngài chớ khá vội vàng,

Ngồi chơi một chốc bĩ bàng biết bao.
Nàng Lan cũng bước ra chào,
Chỉ nàng thiếp nói Bồ-đào là quê.
Từ nhà đánh bạn đánh bè,
May đâu cát vướng đặng kề tùng cao ».
Chàng rằng: « sắc đẹp mưu sâu,
Dù ai cũng phải đâm đầu vào trong ».
Nàng liền mặt tía tai hồng:
« Xin chàng đừng bỡn im lòng mà nghe.
Từ khi chúa ngục ra về,
Đưa thư thiếp cũng đủ bề nhắn nhe.
Đưa theo rượu, ngọc, gấm, the,
Trả lời va cũng lăm le vướng mồi.
Hẹn hò đến buổi chiều mai,
Ba người hậm hụi đứng ngồi những trông.
Ngày chiều vừa gác bóng hồng,
Xe đôi áo cặp đùng đùng và qua.
Thiếp thời xiêm lụa áo là,
Trăm chiều ngàn chuộng bước ra hỏi chào.
Bẩm thưa như thiếp vương hầu,
Trong khi trò chuyện cọ đầu kề tay.
Va liền cất tiếng nói ngay,
Miệng cười rã rã như bày ruột gan.
Va còn lắm nỗi mơ màng,
Thiếp liền kiếm chuyện hỏi xoàng đôi câu,

  1. 阿 能 奴 là tướng giỏi nước Mỹ, sau thấy quân Mỹ thua lắm, anh ta trở mặt đầu người Anh.
  2. Bài nầy ca ra rặt là lịch sử Nhật-Bỗn, nên đổi lại nước mình, chẳng phải bản chánh như vậy.