Bước tới nội dung

Hưng Đạo vương/Hồi 13

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MƯỜI BA

Trần đại-vương dùng phép trừ tà,
Yết tướng-quân đục thuyền mắc lưới.

Hưng-đạo vương đóng quân trong thành Thăng-long, giữ nhau với quân Nguyên, được hơn nửa tháng. Nghe tin quân Nguyên phạm lăng tiên-đế, đã sai quân về sửa sang. Lại lo Thoát-Hoan cho quân xuống lần nữa, mới sai Phạm-ngũ-Lão dẫn 5.000 quân xuống giữ chặn đường Long-hưng. Một mặt hội các tướng lại bàn mưu phá giặc.

Tham-tán Phạm-Ngộ nói rằng:

— Thoát-Hoan chẳng qua chỉ ỷ thế có yêu-thuật, phá vỡ quân ta. Nay nên nghĩ cách trừ được thuật ấy, thì đánh mới đổ được quân Nguyên.

Hưng-đạo vương nói rằng:

— Ta thủa xưa thường có học được dị thuật, ta đã lập thành trận đồ, gọi là Cửu-cung Bát-quái. Lại may có một thanh thần-kiếm; vậy để ngày mai ta dẫn quân ra thành dàn trận, đánh nhau với quân Nguyên, kỳ cho bắt được yêu-nhân mới nghe.

Sáng hôm sau, Hưng-đạo vương đem quân ra thành, bày thành trận thế, chia quân dàn ra tám cửa, mỗi cửa một sắc cờ: Mặt chính-đông cờ xanh, mặt chính-tây cờ trắng, mặt chính-nam cờ đỏ, mặt chính-bắc cờ đen. Góc đông-nam cờ gián sắc xanh-đỏ, góc đông-bắc cờ gián sắc xanh-đen, góc tây-nam cờ gián sắc đỏ-trắng, góc tây-bắc cờ gián sắc trắng-đen. Mỗi mặt 300 quân: 50 tên kị-mã cầm cờ, 250 tên bộ-tốt cầm đồ khí giới. Ở chính giữa thì có một toán quân cờ vàng. Hưng-đạo vương dẫn Dã-Tượng, Yết-Kiêu tự lĩnh trung quân, còn các mặt chia sai bốn vị vương-tử là Hưng-võ vương Quốc-Nghiễn lĩnh mặt chính-đông; Hưng-hiến vương Quốc-Úy lĩnh mặt chính-tây; Hưng-nhượng vương Quốc-Tảng lĩnh mặt chính-nam; Hưng-trí vương Quốc-Nghê lĩnh mặt chính-bắc. Lại sai Hùng-Thắng giữ góc tây-bắc; Huyền-Du giữ góc tây-nam; Nguyễn-địa-Lô giữ góc đông-nam; Hà-Chương giữ góc đông-bắc.

Dàn bày đâu đấy, sai người đưa chiến-thư cho Thoát-Hoan, thách đánh.

Thoát-Hoan đến vây thành đã hơn nửa tháng, ngày nào cũng đem quân đến dưới thành khiêu chiến, nhưng thấy Hưng-đạo vương giữ vững bốn mặt thành không ra, nghĩ mãi chưa có kế gì phá được. Bỗng nhiên thấy có chiến-thư đưa đến. Thoát-Hoan mở ra xem biết là thách đến phá trận. Lập tức lên ngựa dẫn quân đến gần dưới thành xem trận thế làm sao. Trông thấy trận bày tám cửa rất là nghiêm chỉnh, mới hỏi Nguyễn-bá-Linh rằng:

— Trận kia gọi là trận gì?

Nguyễn-bá-Linh lên cao ngắm nghía xem một hồi lâu, rồi nói với Thoát-Hoan rằng:

— Trận này có tám cửa, ở giữa lại có một đội quân, đó là theo trong Hà-đồ Lạc-thư bày ra, gọi là trận Cửu-cung Bát-quái.

Thoát-Hoan lại hỏi:

— Cứ như trận ấy có cách gì khó phá, mà y dám thách quân ta?

Bá-Linh thưa:

— Tôi xem kĩ trận này, tuy không lấy gì làm khó phá, nhưng xem lại thì có sát-khí bốc lên, chắc là có thuật quỉ thần gì đây, nếu đại-quân khinh thường phá vào, tất là mắc mẹo.

— Vậy thì ngươi có thuật gì phá được không?

Bá-Linh ngần ngừ một lúc, rồi thưa rằng:

— Trận này biến hóa lắm phép, xin thái-tử đóng quân ở ngoài, để tôi xin lĩnh một toán quân phá vào trong trận, tùy cơ ứng biến, phỏng có nguy cấp, tôi cũng có phép thoát thân.

Thoát-Hoan nghe nhời, cho Bá-Linh dẫn một đội quân vào phá trận, còn mình thì đóng quân ở ngoài.

Bá-Linh dẫn 500 quân hò reo đánh trống tự mặt chính-đông đánh vào. Hưng-đạo vương thấy quân Nguyên đánh vào, thủ tướng là Bá-Linh, trong bụng đã mừng, chắc là phen này bắt được yêu-nhân. Mới cầm thanh thần-kiếm niệm chú mấy câu, rồi lại cầm lá cờ vàng phất lên, bỗng dưng giời đất tối sầm, đùng đùng nổi gió. Bá-Linh giật mình, kíp muốn rút quân chạy ra, thì giời đã mù mịt, không phân biện bên nào là đông, tây, nam, bắc, chỉ thấy tiếng quân hò reo, cung nỏ bắn ra như mưa. Bá-Linh thấy thế đã nguy cấp lắm, mới dùng phép độn-giáp, tàng hình biến mất, còn 500 quân thì bị chết và bị bắt sống không thoát một người nào.

Thoát-Hoan khi ấy thấy Bá-Linh vừa vào khỏi trận thì giời nổi gió, u ám cả lại, biết là mắc mưu, không dám vào cứu, liền rút quân chạy ra bờ sông Phú-lương. Hưng-đạo vương thừa thế đuổi đánh, quân Nguyên xuống thuyền không kịp, chết đuối rất nhiều. Thoát-Hoan chạy được lại lui về Vạn-kiếp, chia quân giữ trại Chí-linh và trại Phả-lại.

Hưng-đạo vương thu quân, biết Bá-Linh dùng phép trốn được, bàn với các tướng muốn tiến quân xuống Vạn-kiếp, bày kế bắt cho được Bá-Linh mới nghe.

Bá-Linh trốn về Vạn-kiếp ra mắt Thoát-hoan, Thoát-Hoan mừng rỡ, hỏi rằng:

— Ta tưởng là ngươi bị hãm ở trong trận rồi, làm sao lại về được đến đây?

Bá-Linh thưa rằng:

— Tôi may nhờ có thuật tàng hình biến hóa, không thì cũng mắc phải trận ấy.

Thoát-Hoan lại nói rằng:

— Không ngờ Trần Hưng-đạo cũng biết dùng thuật, ngươi nghĩ làm sao bây giờ?

Bá-Linh thưa:

— Thái-tử khoan tâm, xin ngài cứ giữ vững ở đây, để tôi xin cùng với Ô-mã-Nhi tướng-quân, đem thủy-quân ra sông Phú-lương, liệu tìm mưu kế mà phá thành Thăng-long.

Thoát-Hoan nghe nhời, sai Ô-mã-Nhi, Bá-Linh dẫn 500 chiến thuyền tự sông Vạn-kiếp thuận dòng ra Phú-lương.

Hưng-đạo vương thấy quân Nguyên lại kéo đến, hỏi các tướng rằng:

— Ta bày trận trước, cốt để bắt Nguyễn-bá-Linh, không ngờ y có thuật trốn được, nay y lại dẫn quân đến, thì nên nghĩ kế gì mà bắt cho được?

Yết-Kiêu thưa rằng:

— Đại-vương chớ ngại, tôi xin dùng một kế này, không cần gì phải đánh khó nhọc, mà quân giặc phải chết đuối cả, và tất bắt được Bá-Linh.

Hưng-đạo vương hỏi:

— Ngươi có kế gì mà hay làm vậy?

Yết-Kiêu thưa:

— Tôi có một nghề lội nước rất giỏi, cả ngày ở dưới nước cũng không việc gì. Vậy tôi xin xuống sông đến chỗ thuyền quân Nguyên đóng, đục đáy thuyền cho nước tràn vào. Như thế thì quân kia phải chết đuối cả, mà có thể bắt được Bá-Linh.

Hưng-đạo vương nghe nhời cho đi.

Yết-Kiêu lĩnh mệnh ra đi, cầm dùi sắt lặn xuống sông. Khi đi ngầm đến gầm thuyền giặc, đục luôn được vài ba chiếc, nước tràn vào đắm cả, quân Nguyên thấy thế xôn xao, Ô-mã-Nhi không biết vì cớ gì, ngờ là có thủy quái dưới sông, sai quân sĩ cầm giáo dài đâm xuống. Yết-Kiêu vội vàng lặn xuống đáy sông trốn về.

Hôm sau, Yết-Kiêu lại cầm dùi lặn xuống sông đục thuyền quân Nguyên, liền đắm mất vài chiếc; quân nó đâm giáo xuống. Yết Kiêu lại trốn về.

Ô-mã-Nhi thấy thuyền thường tự dưng bị đắm, cho dò xem, biết là có người đục thuyền, đang nghĩ kế dò bắt, lại thấy quân-sĩ kinh hoàng hô hoán lên rằng: thuyền đắm! Ô-mã-Nhi vội vàng sai quân xúm lại cầm giáo khua lùng dưới nước. Yết-Kiêu thấy động, lại lặn xuống dưới sâu trốn thoát.

Ô-mã-Nhi bắt không được người đục thuyền, trong bụng căm tức, mới dự sẵn chài lưới, có ý dình bắt. Yết-Kiêu vô tình, hôm sau lại đến đục thuyền. Ô-mã-Nhi biết ý, giăng lưới ra cả bốn mặt, rồi sai quân lia gươm xỉa giáo xuống nước, sục tìm tứ phía. Yết-Kiêu vội vàng trốn ra, không ngờ mắc phải lưới có lưỡi câu, quấn chằng cả vào mình. Quân Nguyên reo ầm cả lên, xô nhau lại kéo lưới bắt đem lên thuyền. Ô-mã-Nhi thấy bắt được một tướng mặt mũi dữ tợn, sai trói lại đem đến thuyền mình tra hỏi.

Quân thám-tử biết tin Yết-Kiêu bị Ô-mã-Nhi bắt được, chạy về báo với Hưng-đạo vương, Hưng-đạo vương lo lắm, muốn đem quân đến đánh Ô-mã-Nhi để cứu Yết-Kiêu, mới sai Dã-Tượng, Hùng-Thắng dẫn chiến-thuyền ra sông Phú-lương. Ngài thì dẫn quân đi sau tiếp ứng. Ô-mã-Nhi thấy có chiến thuyền kéo đến, liền dàn thuyền ra cự nhau với quan quân. Đôi bên đánh nhau một hồi, Dã-Tượng, Hùng-Thắng địch không nổi quân Nguyên, quay thuyền chạy về. Ô-mã-Nhi, Nguyễn-bá-Linh giục thuyền đuổi đánh, may có đại quân tiếp ứng, cứu được hai tướng. Ô-mã-Nhi lại rút quân về thượng-lưu. Hưng-đạo vương thấy đánh chưa được linh lợi cũng rút quân về thành.

Ô-mã-Nhi về thủy-trại đem Yết-Kiêu ra hỏi rằng:

— Nước Nam còn ai giỏi bằng mày nữa không?

Yết-Kiêu thưa rằng:

— Bọn chúng tôi đi đục thuyền còn nhiều người giỏi, duy tôi lội hèn nhất, mới phải bị bắt. Nếu Tướng-quân tha tôi, thì tôi xin chỉ đường cho Tướng-quân bắt hết được cả bọn kia.

Ô-mã-Nhi tin nhời, sai cổi trói, khoản đãi tử tế, rồi cho ngồi một chiếc thuyền nhỏ, sai quân dẫn đi trỏ đường, để bắt bọn kia. Yết-Kiêu nhân lúc bất tình cờ, nhảy tùm xuống sông trốn mất.

Quân sĩ về báo với Ô-mã-Nhi, Ô-mã-Nhi than rằng:

— Ai ngờ nước Nam có thần-tướng, chúng ta khó lòng ở lâu được xứ này!

Yết-Kiêu trốn về ra mắt Hưng-đạo vương. Hưng-đạo vương mừng rỡ, hỏi lại tình đầu các truyện, Yết-Kiêu thưa hết đầu đuôi mọi sự.

Hưng-đạo vương hỏi rằng:

— Kế ấy của ngươi cũng không bắt được yêu-nhân, vậy ngươi còn kế gì nữa không?

Yết-Kiêu thưa rằng:

— Tôi tuy chưa thành công, những cũng đã khiến cho quân Nguyên mất vía. Vậy tôi lại xin đi đục thuyền chuyến nữa. Chuyến này tôi xin tìm đích thuyền Bá-Linh ngồi sẽ đục, thì chắc là bắt được y.

— Mưu ấy của ngươi đã lộ rồi, giặc tất phòng bị trước, dùng làm sao được nữa.

— Giặc tuy biết mưu ấy, nhưng tôi xin tùy cơ ứng biến, thừa khi bất ý, lừa bắt cho được Bá-Linh thì chạy về ngay, dẫu giặc biết cũng không làm gì được.

— Ngươi đã nhất định xin đi, thì phải cho cẩn thận, hễ bắt được Bá-Linh thì ta mới có thể phá được quân Thoát-Hoan.

Yết-Kiêu mừng rỡ, lại đi ra bờ sông.

Đó là:

Lập công bao quản đường gian hiểm,
Dùng mẹo nên tìm cách lạ lùng.

Chưa biết về sau thế nào, sẽ xem hồi sau phân giải.