Bước tới nội dung

I Sử ký/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
I Sử ký của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 9

Dân thành Giê-ru-sa-lem đã bị làm phu-tù lại được trở về

91 Ấy vậy, cả dân Y-sơ-ra-ên được biên vào sổ theo các gia-phổ; kìa đã ghi-chép vào sách ký-lược của các vua Y-sơ-ra-ên. Dân Giu-đa, tại tội-lỗi họ, bị bắt đem qua nước Ba-by-lôn. 2 Sau khi từ Ba-by-lôn trở về, các người ở đầu-tiên trong địa-nghiệp và trong các thành-ấp của chúng, là người Y-sơ-ra-ên, thầy tế-lễ, người Lê-vi, và người Nê-thi-nim.

3 Ở tại thành Giê-ru-sa-lem, có người Giu-đa, người Bên-gia-min, người Ép-ra-im, và người Ma-na-se. 4 Về dòng Phê-rết, là con của Giu-đa, có U-thai, con trai của A-mi-hút, A-mi-hút con trai của Ôm-ri, Ôm-ri con trai của Im-ri, và Im-ri con trai của Ba-ni. 5 Bởi người Si-lô-ni có A-sai-gia con trưởng-nam, và các con trai của người. 6 Bởi con-cháu Xê-rách, có Giê-u-ên và anh em người, là sáu trăm chín mươi người.

7 Về dòng Bên-gia-min, có Sa-lu, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Hô-đa-via; Hô-đa-via, con trai của A-sê-nu-a; 8 lại có Gíp-nê-gia, con trai của Giê-rô-ham, Ê-la con trai của U-xi; U-xi là con trai của Mi-cơ-ri và Mê-su-lam, con trai của Sê-pha-tia; Sê-pha-tia là con trai của Rê-u-ên; Rê-u-ên con trai của Gíp-nê-gia, 9 và anh em chúng kể theo thế-hệ thì được chín trăm năm mươi sáu người. Những người ấy đều làm trưởng-tộc.

10 Trong những thầy tế-lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11 và A-xa-ria, con trai của Hinh-kia; Hinh-kia con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam con trai của Xa-đốc; Xa-đốc con trai của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt, con trai của A-hi-túp, là kẻ cai-quản đền của Đức Chúa Trời; 12 lại có A-đa-gia, con trai của Giê-rô-ham; Giê-rô-ham, con trai của Pha-sua; Pha-sua, con trai của Manh-ki-gia; Manh-ki-gia, con trai của Ma-ê-sai; Ma-ê-sai, con trai của A-đi-ên; A-đi-ên, con trai của Gia-xê-ra; Gia-xê-ra, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít, con trai của Y-mê; 13 và anh em của chúng, số là một ngàn bảy trăm sáu mươi người, đều làm trưởng-tộc, có tài hầu-việc trong đền của Đức Chúa Trời.

14 Trong người Lê-vi có Sê-ma-gia, con trai của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia; thảy đều thuộc về dòng Mê-ra-ri; 15 lại có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, đều là con trai của Mi-ca, cháu của Xiếc-ri, chắt của A-sáp; 16 Ô-ba-đia, con trai của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thum; Bê-rê-kia, con trai của A-sa, cháu của Ên-ca-na, là người ở trong làng dân Nê-tô-pha-tít.

17 Những kẻ canh cửa, là Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và anh em của chúng; Sa-lum làm đầu. 18 Cho đến bây giờ họ canh cửa đông của vua; còn xưa tổ-tiên họ đều giữ cửa trại người Lê-vi. 19 Sa-lum con trai Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em tông-tộc mình; ấy là dân Cô-rê lo coi-sóc sự phục-dịch, và canh-giữ các cửa đền-tạm; xưa tổ-phụ chúng cai-quản trại của Đức Giê-hô-va, và giữ cửa trại. 20 Xưa Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, làm quan-cai chúng, và Đức Giê-hô-va ở với người. 21 Xa-cha-ri, con trai Mê-sê-lê-mia, là kẻ giữ cửa hội-mạc. 22 Những kẻ nầy đã được lựa-chọn hầu canh giữ các cửa, số được hai trăm mười hai người. Người ta chép gia-phổ họ theo các hương họ; vua Đa-vít và Sa-mu-ên, là đấng tiên-kiến, đã lập mấy người ấy trong chức của họ. 23 Ấy vậy, chúng và con-cháu của chúng, đều theo ban-thứ, mà coi giữ các cửa đền của Đức Giê-hô-va, tức là đền-tạm. 24 Các kẻ giữ cửa đặt ở bốn phía đền về đông, tây, nam, và bắc. 25 Các anh em chúng ở trong các làng mình phải đến từng tuần, theo phiên-thứ, mà giúp-đỡ. 26 Còn bốn người Lê-vi làm trưởng những người canh cửa, hằng giữ chức mình, và coi-sóc các phòng và kho-tàng trong đền của Đức Chúa Trời. 27 Ban đêm chúng ở xung-quanh đền của Đức Chúa Trời canh giữ nó; đến mỗi buổi sáng-sớm chúng lại lo mở cửa ra.

28 Trong bọn chúng cũng có mấy người được chức giữ đồ khí-dụng, vì các đồ ấy đem ra đem vô y theo số. 29 Lại có kẻ khác được cắt coi-sóc đồ-đạc và các khí-dụng tại nơi thánh, cùng lo giữ bột-miến, rượu, dầu, nhũ-hương, và các thuốc-thơm. 30 Có mấy kẻ trong bọn con trai những thầy tế-lễ chế các thứ hương-hoa. 31 Còn Ma-ti-thia, người Lê-vi, con trưởng-nam của Sa-lum, thuộc về dòng Cô-rê, coi-sóc việc làm bánh rán trong chảo. 32 Mấy kẻ trong vòng anh em chúng về dòng Kê-hát, được chức coi về việc làm bánh trần-thiết, hễ đến ngày Sa-bát thì phải sắm cho sẵn.

33 Đây là những người có chức hát-xướng, đều làm trưởng-tộc trong người Lê-vi, vẫn ở trong các phòng của đền, và vì phục-sự ngày và đêm, nên được miễn các công-việc khác. 34 Những người ấy đều làm trưởng-tộc của người Lê-vi, theo đòng-dõi họ, và ở tại thành Giê-ru-sa-lem.

Dòng-dõi của Sau-lơ và Giô-na-than

35 Giê-i-ên, tổ-phụ của Ga-ba-ôn, ở tại thành Ga-ba-ôn; tên vợ người là Ma-a-ca. 36 Con trưởng-nam của người là Áp-đôn; lại sanh Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 37 Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lô. 38 Mích-lô sanh Si-mê-am. Chúng cũng đồng ở cùng anh em mình trong thành Giê-ru-sa-lem đối mặt nhau. 39 Nê-rơ sanh Kích; Kích sanh Sau-lơ; Sau-lơ sanh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh. 40 Con trai Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh; Mê-ri-Ba-anh sanh Mi-ca. 41 Con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha. 42 A-cha sanh Gia-ê-ra; Gia-ê-ra sanh A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sanh Một-sa; 43 Một-sa sanh Bi-nê-a, con trai Bi-nê-a là Rê-pha-gia; Rê-pha-gia sanh Ê-lê-a-sa, và Ê-lê-a-sa sanh A-xên. 44 A-xên có sáu người con trai, tên là A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan; ấy đều là con trai của A-xên.