Bước tới nội dung

Ký cữu Dịch trai Trần công

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Ký cữu Dịch trai Trần công - 寄舅易齋陳公
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

兵餘親戚半離零
萬死殘軀偶一生
往事空成槐國夢
別懷誰寫渭楊情
不來自擬同王式
避亂終當學管寧
欲問相思愁別處
孤齋風雨夜三更

Binh dư thân thích bán ly linh;
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
Vãng sự không thành Hòe quốc mộng[1] ;
Biệt hoài[2] thùy tả Vị dương[3] tình.
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức[4] ;
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh[5].
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ ;
Cô trai phong vũ dạ tam canh.

Sau cuộc binh hỏa, thân thích đã rơi rụng một nửa;
Trải muôn chết thân tàn ngẫu nhiên còn sống.
Việc cũ xưa đã thành giấc mộng Hòe quốc;
Nhớ xa nhau ai tả được mối tình Vị dương.
Không đến những tưởng giống như Vương Thức;
Tránh nạn rốt cuộc nên theo Quản Ninh.
Muốn hỏi chỗ nhớ nhung sầu biệt (của tôi)?
Ấy là một phòng vắng gió mưa suốt ba canh.

   




Chú thích

  1. Hòe quốc mộng: Chuyện người nằm ngủ trưa dưới gốc hòe mơ thấy mình được phú quý ở nước Hòe An, tỉnh mộng thấy phú quý mất cả. Cũng gọi là mộng Nam Kha
  2. Bản Thi lục chép là « biệt hoài ». Bản Dương Bá Cung chép lẫn là « biệt lân 別 嶙 » có lẽ sai
  3. Vị dương: Bài « Vị dương » Kinh Thi có câu « Ngã tống cậu thị, viết chí Vị dương » (Ta đưa cậu ta, bảo đến Vị dương). Đó là bài thơ Tần Khang Công đưa Tấn Văn Công về nước, Văn Công là cậu Khang Công nên nên sau người ta dùng chữ « Vị dương tình » để chỉ tình cậu cháu
  4. Vương Thức: Người Trung Quốc đời Hán, làm thầy dạy Xương Ấp Vương. Xương Ấp Vương nối ngôi vì hoang dâm mà bị phế, vua sai sứ giả đến hỏi thầy học vì sao không biết can, trả lời rằng dạy mấy trăm bài Kinh Thi đó là can rồi đó; được khỏi tội, sau được trúng làm bác sĩ; bị Giang công làm nhục, cáo bệnh xin miễn quan về nhà
  5. Quản Ninh: Người Trung Quốc đời Hậu Hán, tránh loạn Hoàng cân sang ở Liêu Đông, người đi theo rất đông, ở thành ấp đem Thi Thư dạy học, triều đình gọi không về