Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ
Giao diện
I
[sửa]Nguyên văn chữ Hán | Phiên âm Hán Việt | Dịch nghĩa |
---|---|---|
天古文章天古師 |
Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời |
II
[sửa]Nguyên văn chữ Hán | Phiên âm Hán Việt |
---|---|
每讀儒冠多誤身 |
Chú thích
- ▲ Ở tỉnh Hồ Nam. Năm Đại Lịch thứ 6 (771) đời vua Đường Đại Tôn 唐文宗, Đỗ Phủ ở Hồ Nam lưu lạc đến Hồ Bắc. Một hôm đến huyện Lỗi Dương lên núi yết Nhạc miếu, bị nước lụt dâng ngót 10 hôm không trở về được. Quan huyện Lỗi Dương nghe tin bèn thân hành đưa thuyền đến đón. Về đến huyện, Đỗ uống rượu say rồi mất. Gia đình nghèo không đưa hài cốt về quê được phải táng ở Lỗi Dương. Bốn mươi năm sau (813) cháu là Đỗ Tự Nghiệp mới dời di hài về chôn gần mả tổ tại núi Thú Dương, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Du sang sứ Trung Quốc năm 1813, tức là một nghìn năm sau khi mả của Đỗ Phủ đã dời về núi Thú Dương. Cho nên không còn ai biết nền cũ nằm ở chỗ nào
- ▲ "Thu phố ngư long hữu sở ti": câu này Nguyễn Du lấy ý tứ hai câu thơ của Đổ Phủ trong bài Thu hứng kỳ 4 秋興:
魚龍寂寞秋江冷
故國平居有所思
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,
Cố quốc bình cư hữu sở tư.
Ý nói Đỗ Phủ (và cả Nguyễn Du) xa quê hương, đến mùa thu lại nhớ nhà. Nguyễn Du đã đúc hai câu làm một, vừa để nói lên nỗi lòng của Ðỗ Phủ ngày xưa, vừa tỏ tấm tình của mình khi đến viếng mộ: Mộ tuy không còn thấy, nhưng vẫn còn có chỗ để gởi lòng kính thương kính mộ là những áng thơ tuyệt tác như câu "Ngư long..." - ▲ Tiểu sử kể rằng về già Đỗ Phủ mắc nhiều bệnh lại điếc, nói chuyện với ai phải viết ra giấy, cánh tay phải tê liệt, lúc viết thư thì con viết thay. Chứng lắc đầu có thể là triệu chứng của một bệnh thần kinh nào đó của Đỗ Phủ được nhà thơ đề cập đến trong thơ văn
- ▲ Đây là một câu thơ trong bài Phụng tặng Vi Tả thừa trượng thập nhị vận của Đỗ Phủ
- ▲ Trong bài Càn Nguyên trung ngụ Đồng Cốc huyện tác ca thất thủ (Năm Càn Nguyên ở huyện Đồng Cốc, làm bảy bài ca) có đoạn tả cảnh mùa đông, Đỗ Phủ đầu bạc tóc rối đi đào khoai rừng. Nhưng tuyết xuống nhiều quá, phải về không: "Nam nữ thân ngâm tứ bích tịch" (Con trai gái kêu đói, bốn vách lặng ngắt). Nguyễn Du, trong tập Nam Trung tạp ngâm 南中雜吟, bài Ngẫu đề 偶題 có một câu tương tự: "Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc" 十口啼饑橫北