Lục Vân Tiên (bản Nôm 1916)/I

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Chữ Nôm Tiếng Việt

畧畑䀡傳西銘
𡄎唭𠄩𡦂人情喓𠻗
埃匕𠳺匕麻𦖑
𡨺噒役畧苓𠽮身𡢐
𤳆辰忠孝񠮚頭
𡛔辰節行񠒻 句捞𨉓

固𠊛扵郡東 城
修仁積񣒬񠊓生昆䝨
達𠸜񠒻陸雲仙
歲𣃣𠄩糁芸專斈行
蹺柴𤍇史𥸷經
𣎃㝵包񠥶功程劳刀
文它起鳳滕雲
武添 叁畧六韜埃皮
𠫾䀡񠙚 会科詩
雲仙𠓨謝尊 師񣒋𧗱
閉𥹰񠙑 圣預掑
㐌鮮氣象吏吹精神
񣐯 它及会風雲
𠊛匕埃拱立身貝尼
志񡄅𢏑鴈边𩄲
名碎㐌 𤎜㗂柴屯賖
񠮚𤳆𥪝𡎝𠊛些
畧卢報補 𡢐񠒻顕荣
尊師欺意論盘
𡄎𥪝𢼂係科塲群賖
𢵯𢈱񠟜敢呐 𠚢
吹柴傷伵㤕車𥪝𢚸
𡢐油訴浽濁冲
沛朱𠬠法底防񣅧 身
𣈙昆𠖈准風񠣠
柴朱𠀧道符神񠟅蹺
񠟜 埋麻及𠯿𠨪
𠖈滝供𠊡𨖲񡄆拱安
尊師𠓨准後堂
雲仙魚謹𢚸強生񠡳
񠟜 咍𨉓嗼役之
񡄇師𠊛𠰺科期群賖
𠬠񠒻貝񠒘񠡡茄
𠄩񠒻񣒬泊𠀧񠒻才踈
闭𥹰񡄈飭詩書
会尼񠟜及群除会񠆒
盛衰񠟜別񠮚牢
之朋哙吏理񠆒朱明
𠓨䜹朱訢事情
丕 𡢐𠦳淡登程買安
尊師񠚭唉咀嘆
𥄭𠚢畧按𧡊払阻񠀡
哙浪萬里程途
昆渚拮挭群񠀡񠡡之
咍񠒻昆唉胡񠡳
柴盘𠬠񠡡科期群賖
云仙𦖑呐連䜹
小生庄別񢾛湄𠯿 񠆒
椿萱歲鶴㐌高
吀柴排訢音毛朱詳
尊師𦖑呐添傷
𢩮𢬣񠒽準前堂䀡𦝄
因机謀事𠴍浪
񠡡𠊛񠟜恪񠙮𦝄𨕭ˆ
雖浪㵢 泣尼匕
欺𤎎欺訢欺潙欺苔
𡢐昆拱𤎜񠡡𠁀
呂񠒻柴沛𣴓唎 爫之
𡢐昆𠄩𡦂科期
斗星㐌𤎜紫微添和
嫌爲馭唉群賖
兎它路俸񣌂它𠰁散
包徐朱細北方
包徐﨤𤝞񠒽塘𢧚名
𡢐油鄧𡦂顕荣
񠋱唎柴呐前程񠟜差
汝勾否極泰來
𡨹𠇮朱援񠡡埃񠟜 񠌣
雲仙倍且謝恩
𤾓𠄼吀亘膠山𠬠𠳒
񠒽𠫾𣃣尽蹎𡗶
𠿯匕吏𥄭𠓨尼圣堂
嘆浪天各一方
柴王段慘伵王段愁
管包𠇮񣘨解油
芒帶子路掛瓢刘泠
㝵񠆒񠝪渃及縁
朗名昆討匪願碎񢼁
計自昔淡細񣐯
痗迷倂㐌闭迡衝霜
兑𦖻風景添傷
為匕淡娄裊塘群賖
丿兜㐌細隣家
畧񠒻探伴𡢐񠒻񠀢蹎

񠡡之񣔎哭熷𤇊
調񠟅饒𧼋𠓨棱𨑗𡽫
仙浪各注拱昆
񠡡之急足奔匕𧼋𢙇
民浪小子񠒻昆
咍񠒻𠬠屡山񠊀蹺些
仙浪拠事爫牢
吀柴𡮇㐌仕𢭂𠬠𢈱
民𦖑㗂呐請台
呌蹺𨅸吏𤑟𢈱分戈
䜹浪固党娄񠒻
𠸜񠒻杜預号񠒻風來
𥱱饒扵准山񠊀
𠊛調𢜝奴固才坤當
悲徐都𠖈本鄕
𧡊昆𡛔卒戈塘扒𠫾
𥪝廊񠟜敢呐之
感傷𠄩婍女兒縸񠝦
昆埃䏧玉𠇮鐄
𦟐桃眉񡄎容顔冷㳥
𠲖欺及党行凶
枉荘淑女生񠡱匹夫
崔匕渚呵呐𥹰
𧼋𠫾朱塊矯敺細񡄏
雲仙浽陣雷霆
哙探屡奴群仃尼񠆒
碎吀𦋦飭英豪
枚𠊛朱塊劳刀貝尼
民浪屡奴群低
戈䀡񠙮倍踈兮㐌仃
𠲖欺񢿜虎不成
欺空𠇮吏墫𠇮𠓨𡎟
雲仙𨅸吏边塘
𢯏核爫梞[ ? ] 𠦳𧼋無
呌浪唉党凶徒
渚涓退与模糊害民
風來񠙮񣇨𤇊匕
繩񠆒麻敢礼凌𠓨低
畧掑񠡡与在眉
傳軍𦊚費補𡆫񡄐蓬
云仙左突右衝
恪񠆒趙子越񠒋当阳
娄񠒻𦊚費𡲤散
調挄劍敎𦋦塘𧼋𦖑
風來庄及阻𢬣
被仙梞𠖈払𣈙𠇮亡
折耒屡蜆排螉
哙埃嘆哭扵冲車尼
䜹浪碎寔𠊛񢼁
沙机𢧚買林𢬣凶徒
冲車質合苦無
敢䜹埃妬救姑碎񠡱
云仙𦖑呐動𢚸
𣈜񠅪些㐌除𣳔娄񠒻
寬寬𡎢妬渚𦋦
娘񠒻分𡛔些񠒻分𤳇
小姐昆𡛔茄埃
𠫾兜𢧚浽芒灾不期
񠟜咍𠸜户񠒻之
閨卿分妬役之細低
畧𡢐渚旱肔尼
𠄩娘埃伵埃柴呐𦋦
䜹浪碎矯月娥
尼昆婢膝𠸜񠒻金連
圭茄扵郡西川
吒爫知府𡎢沔河溪
差軍񠟅幅书𧗱
逴碎戈妬定皮宜家
爫昆兜敢改吒
񠂎油𠦳淡塘車拱仃
񠟜咍񠒻事不平
別𡆫催固上程爫之
臨危񠟜及解危
節𤾓񣚑拱補迻𠬠回
畧車君子暫𡎢
嗔朱賤妾񠐛耒仕分


河溪戈妬拱𧵆
嗔蹺拱妾𡊰恩朱払
﨤低当𣅶𡨌塘
𧵑錢񠟜固泊鐄拱空
汝句報德酬功
𥙩之朱匪񠍢𢚸񠡱𤽗
云仙𦖑呐𠴡唭
爫恩呵易徐𠊛者恩
񠅪它𤑟鄧源干
񠆒埃併寔推欣爫之
汝句見񠓃不爲
𠊛𠁀𦍛意是非񠢠雄
妬它別𡦂始終
呂񠒻些沛蹺񠡱爫之
月娥別意񠟜𠫾
哙戈𠸜户𠬠欺朱詳
䜹浪便妾𠫾塘
񠟜咍君子圭鄕尼񠆒
𦖻𦖑㗂呐請台
云仙包𦬑𢚸񠆒配波
東城本寔圭茄
户񠒻陸氏𠸜񠒻云仙
月娥本𨅸嬋娟
𦖻𦖑𢈱呐𢬣連𢭂簪
䜹浪񠅪﨤知音
嗔迻𠬠物底扲爫信
云仙仰񠙮񠟜𥆾
月娥𥆁𧡊𥆁辰񠠤那
物之𠬠𡮇哙񠒻
妾䜹渚一払它爫魚
𧵑尼񠒻𧵑沕爲
𢚸吱拱沛񠙮魚牢仃
云仙苦浽爫清
𡦂恩񠒻񠓃𡦂情񠒻𦀊
嘆浪妬窖嘹低
恩箕㐌買𧵑尼𢭂朗
当欺﨤𡂂𡨌塘
𠬠𢈱嗔汝𠦳鐄񠟜差
汝勾重񠓃輕財
񠆒埃𠹾𥙩𧵑埃爫之
䜹浪碎分女兒
本渚別氏固欺覔𢚸
埃񠡳𨅸񠙮񠢠雄
𧡊簪催吏𢢆񠡱丐簪
嘆浪簪咳񠒻簪
㐌無縁闭埃扲麻嘛
迻簪払㐌爫魚
妾嗔爫𠬠排书謝辞
云仙𥄭吏𢚸唹
爫詩朱?𠬠徐渚𥹰
月娥應㗂吀侯
𠖈𢬣卞曰糁句𠄼韻

詩浪

前恩思报念徘徊
爱述一詩爲贈來
字匕長情新笔寫
言匕厚意錦雲񣡾
金簮雖貴輕由葉
大񠓃深𢙇重萬杯
從此願君爭甲第
妾看馬上錦衣囬

詩耒尼妾吀𤼸
仰񣟘量𢌌文人񠣛񠆒
云仙䀡𧡊喭敖
埃咍飭𡛔才髙幅尼
㐌毛麻吏添咍
񠟜畨宋玉拱񠡢西詩
汝句愈出愈奇
埃咍才𡛔劍夷才𤳆
如𡆫埃易收埃
云仙和吏𠬠排𢭂𦋦

詩浪

排徊相別執񠣎盃
敢曰施恩望報哉
重񠓃数言髙唱入
叙情一幅和񠠥來
币񠷤񠉵𡴯隨享達
日月長流用去囬
軫重個中無別語
天長地久永相𢙇

䀡詩買別𧵆賖
枚和韻񠛡匕和韻枚
塘賖審匕興𢙇
塘賖審匕淡𨱽潙匕
埃匕拱扵𥪝𡗶
﨤饒𢈱㐌𣴓𢈱辰傕
云仙辞謝返囬
月娥嘆哭情喂񠒻情
𢪀𠇮麻喭朱𠇮
浽恩渚呂浽情吏芒
񠢡泥𠄩𡦂鴛鴦
叛愁埃窖问王𠓨𢚸
𠳿񠡱月老絲紅
𤾓𠄼朱論𡦂從貝安
有情之闭牛񣅬
񣠨𢚸娥女爲払麻迎
傕匕㛪唉金連
𠖰車朱姉戈沔河溪
񠢥戈𨁪𤟛塘羝
𪀄呌猿唿𦊚皮渃𡽫
拜𡗶吀鄧 񣞊𧷺
𤾓𠄼朱援𢚸崙񠡱払
丿兜㐌細府堂
矯公䀡𧡊𢚸強生񠡳
哙浪񠆒𥘷过兒
故牢𢧚浽昆𠫾𠬠𠇮
月娥踈񠡡前程
矯公𦖑呐事情񠟝盃
月娥胣唉嵬匕
𢪀隊杆吏𣳔涞隊杆
劳刀淬分之遲
𣈗񠆒香񠌿功恩朱払
矯公𦖑呐徬徨
𠰺浪昆唉暫安府鐄
𣅶񠆒吒領役官
曰書戈妬𨑮払鄧低
畧𡢐񠣛拱񠟝迡
吒願呂特񠓃尼辰傕
後塘昆呵暫𨆢
爫虧胣𥘷朱盃𢚸񣃹
侈𦖑鼓點郎𠀧
月娥汝細㤕𢚷分𠇮
移吀𦋦准梨庭
䀡𦝄耒吏想情故人
嘆浪流水清山
㝵񠆒𦖑鄧㗂弹知音
𡦂情乾想乾深
悶分苦辨悶淫苦沛
潙匕坦𢌌天高
񠆒埃女底朱埃𠹾煩
阻𠓨卞𥙩笔硯
達盘香案祝願神灵
漏匕𠬠񣠨𢚸誠
𦘧𦋦幅像𢧚形云仙
嘆浪𠦳淡山川
𡦂恩底胣𡦂縁冉牟

Trước đèn xem chuyện Tây minh[1],
Ngẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Ai ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
5Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

Có người ở quận Đông-thành,
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
10Tuổi vừa hai tám[2] nghề chuyên học hành.
Theo thầy nấu sử sôi kinh,
Tháng ngày bao quản công trình[3] lao đao.
Văn đà khởi phụng đằng vân[4],
Võ thêm tam lược lục thao ai bì.
15Đi xem mở hội khoa thi,
Vân Tiên vào tạ tôn sư ra về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội phong vân,
20Người người ai cũng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây[5],
Danh tôi đã rạng tiếng thầy đồn xa[6].
Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo báo bổ sau là hiển vinh[7]".
35Tôn sư khi ấy luận bàn:
"Ngẫm trong số hệ khoa trường còn xa.
Mấy lời[8] chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng.
Sau tỏ nỗi đục trong,
30Phải cho một phép để phòng hộ thân.
Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho ba đạo phù thần[9] đem theo.
Chẳng may mà gặp lúc nghèo[10],
Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an".
45Tôn sư vào chốn hậu đường,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sinh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Một là bối rối việc nhà,
40Hai là đức bạc ba là tài sơ?
Bấy lâu ra sức thi thư,
Hội này chẳng kịp còn chờ hội nao.
Thịnh suy chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
45Vào thưa cho tỏ sự tình,
Vậy sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "Vạn lý trình đồ,
50Con chưa cất gánh còn vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kì còn xa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sinh chưa biết nắng mưa lúc nào.
65Xuân huyên tuổi hạc đã cao[11],
Xin thầy bày tỏ âm hao[12] cho tường".
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng.
Nhân cơ mưu sự dặn rằng[13]:
60"Việc người chẳng khác mặt trăng lên trời.
Tuy là soi khắp nơi nơi,
Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rạng việc đời,
Lựa là thầy phải cạn lời làm chi?
65Sau con hai chữ khoa kì,
Đẩu tinh đã rạng Tử-vi thêm lòa[14].
Hiềm vì ngựa hãy còn xa,
Thỏ đà lộ bóng gà đà gáy tan[15].
Bao giờ cho tới bắc phương,
70Bao giờ gặp chuột ra đàng nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai[16].
Nhớ câu bĩ cực thái lai,
Giữ mình cho vẹn việc ai chẳng sờn".
75Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm xin hẵng keo sơn một lời.
Ra đi vừa tận chân trời,
Ngùi ngùi lại ngó vào nơi thánh đường.
Than rằng: "Thiên các nhất phương[17],
80Thầy vương đoạn thảm tớ vương đoạn sầu.
Quản bao mình trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử-lộ quảy bầu Lưu Linh[18].
Ngày nào cá nước gặp duyên,
Rạng danh con thảo phỉ nguyền tôi ngay[19]".
85Kể từ tách dặm tới nay,
Mỏi mê tính đã bấy chầy xông sương.
Đoái tai phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Phút đâu đã tới lân gia,
90Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.

Việc chi la khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: "Các chú cùng con!
Việc chi cấp tốc bon bon chạy hoài?"
95Dân rằng: "Tiểu tử là con,
Hay là một Sơn-đài[20] theo ta?"
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
Xin thầy chút đã sẽ trao một lời".
Dân nghe tiếng nói thảnh thơi,
100Kêu nhau đứng lại lời phân qua:
"Thưa rằng có đảng lâu la,
Tên Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
Chụm nhau ở chốn Sơn-đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
105Bây giờ đua xuống bản hương,
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Trong làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai nữ nhi mắc nàn!
Con ai da ngọc mình vàng,
110Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng[21].
E khi gặp đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu[22].
Thôi thôi chưa khá nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu[23] tới mình".
115Vân Tiên nổi trận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn dừng nơi nao?
Tôi xin ra sức anh hào,
May người cho khỏi lao đao buổi này".
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
120Qua xem mặt bậu[24] thơ ngây đã đành.
E khi vẽ hổ bất thành[25],
Khi không[26] mình lại chôn mình vào hang".
Vân Tiên đứng lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm ngàn chạy vô.
125Kêu rằng: "Hỡi đảng hung đồ!
Chớ quen thói dữ Mạc Hồ hại dân".
Phong Lai mặt đỏ bừng bừng:
"Thằng nào mà dám lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mày,
130Truyền quân bốn phía bổ vây bịt bùng".
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu tử vượt vòng Đương-dương[27].
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo ra đường chạy ngay.
135Phong Lai chẳng kịp trở tay,
Bị Tiên gậy xuống chàng rày mình vong.
Giết rồi lũ kiến bầy ong,
Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe này?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
140Sa cơ nên mới lâm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khó vô,
Dám thưa ai đó cứu cô tôi cùng".
Vân Tiên nghe nói động lòng,
"Ngày nay ta đã trừ dòng lâu la.
145Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thư con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?
Chẳng hay tên họ là chi,
150Khuê khanh phận đó việc gì tới đây?
Trước sau chưa hãn[28] dạ này,
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?".
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Nay con tì tất tên là Kim Liên.
155Quê nhà ở quận Tây-xuyên,
Cha làm tri phủ ngồi miền Hà-khê.
Sai quân đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
160Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành!
Chẳng hay là sự bất bình,
Biết vầy thôi có thượng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng kịp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
165Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ phân:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
.
Hà-khê qua đó cũng gần,
170Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không.
Nhớ câu báo đức thù công[29],
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
175Vân Tiên nghe nói miệng cười:
"Làm ơn há dễ chờ người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi.
180Người đời dường ấy thị phi anh hùng[30].
Đó đà biết chữ thủy chung,
Lựa là ta phải theo cùng làm chi".
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
185Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
Tai nghe tiếng nói thảnh thơi,
Vân Tiên bao nỡ lòng nào phôi pha:
"Đông-thành vốn thiệt quê nhà,
190Họ là Lục thị tên là Vân Tiên".
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền trao trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin".
195Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn[31] nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ[32],
200Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành!".
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân là nghĩa chữ tình là đây[33].
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của này trao sang.
205Đương khi gặp gỡ giữa đường,
Một lời xin nhớ ngàn vàng chẳng sai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì".
Thưa rằng: "Tôi phận nữ nhi,
210Vốn chưa biết thị có khi mích lòng.
Ai ngờ đấng mặt anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cái trâm.
Than rằng: Trâm hỡi là trâm!
Đã vô duyên bấy ai cầm mà mơ?
215Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin làm một bài thơ tạ từ".
Vân Tiên ngó lại lòng ưa:
"Làm thơ cho kíp một giờ chưa lâu".
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
220Xuống tay bèn viết tám câu năm vần.

Thi rằng:

"Tiền ân tư báo niệm bồi hồi
Ái thuật nhất thi vi tặng lai
Tự tự trường tình tân bút tả
Ngôn ngôn hậu ý cẩm vân khai
Kim trâm vi quý khinh do diệp
Đại nghĩa thâm hoài trọng vạn bôi
Tòng thử nguyện quân tranh giáp đệ
Thiếp khan mã thượng cẩm y hồi"


"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?"
Vân Tiên xem thấy ngán ngao[34],
Ai hay sức gái tài cao bậc này.
225Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tống Ngọc cũng tày Tây Thi[35].
Nhớ câu dũ xuất dũ kì[36],
Ai hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai dễ thua ai,
230Vân Tiên họa lại một bài trao ra.

Thi rằng:

"Bồi hồi tương biệt chấp li bôi
Cảm viết thi ân vọng báo tai
Trọng nghĩa sổ ngôn cao xướng nhập
Tự tình nhất bức hoạ ca lai
Tệ mông kí ngất tuỳ hưởng đạt
Nhật nguyệt trường lưu dụng khứ hồi
Chẩn trọng cá trung vô biệt ngữ
Thiên trường địa cửu vĩnh tương hoài"


Xem thơ mới biết gần xa,
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai[37].
Đường xa thăm thẳm hứng hoài[38],
Đường xa thăm thẳm dặm dài vơi vơi.
235Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạn lời thì thôi.
Vân Tiên từ tạ phản hồi,
Nguyệt Nga than khóc: "Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
240Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại mang.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Phản sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Vái cùng Nguyệt lão tơ hồng!
Trăm năm cho chọn chữ tòng[39] mới an.
245Hữu tình chi bấy Ngưu-lang[40],
Tấm lòng Nga-nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
Dẩy xe cho chị qua miền Hà-khê".
Trải qua dấu thỏ đường dê,
250Chim kêu vượn hót bốn bề nước non.
Lạy trời xin đặng vuông tròn,
Trăm năm cho vẹn lòng son cùng chàng.
Phút đâu đã tới phủ đường,
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi.
255Hỏi rằng: "Nào trẻ quá nhi[41],
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình[42],
Kiều công nghe nói sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi,
260Nghĩ đòi cơn lại rụng rời đòi cơn[43]:
"Lao đao chút phận chi chầy,
Ngày nào[44] hương lửa công ơn cho chàng".
Kiều công nghe nói bàng hoàng,
Dạy rằng: "Con hãy tạm an phủ vàng.
265Lúc nào cha rãnh việc quan,
Viết thư qua đó mời chàng đặng đây.
Trước sau[45] thế cũng chẳng chầy,
Cha nguyền trả được nghĩa này thì thôi.
Hậu đường con tạm lui,
270Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già".
Xẩy nghe trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga nhớ tới xót xa phận mình.
Dời xin ra chốn đình[46],
Xem trăng rồi lại tưởng tình cố nhân.
275Than rằng: "Lưu thủy thanh sơn,
Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm.
Chữ tình càng tưởng càng thâm[47],
Muốn phân khổ biện muốn dầm phổ phai.
Vời vời đất rộng trời cao,
280Nào ai nỡ để cho ai chịu phiền".
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Vẽ ra bức tượng nên hình Vân Tiên.
285Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên[48],
Chữ ân để dạ chữ duyên nhiễm mầu".

   




Chú thích

  1. Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạo hiếu và đạo nhân, do Trương Tái làm
  2. Hai tám: 16 tuổi
  3. Sân Trình: chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Nho nổi tiếng đời Tống
  4. Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài
  5. Ý nói quyết thi đỗ
  6. Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ (Vân Tiên nói nhún)
  7. Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy
  8. Máy trời: thiên cơ (cơ trời huyền bí)
  9. Phù thần: bùa hộ mệnh
  10. Hiểm nghèo
  11. Song đường: xuân đường, huyên đường (cha mẹ). Tuổi hạc: tuổi thọ
  12. Âm hao: tin tức
  13. Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn (do xem trăng sao mà biết)
  14. Sao Thiên Khôi (sao văn học, thi cử) và sao Tử Vi (thân mệnh) đều sáng rỡ
  15. Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận (mão xung dậu)
  16. Tiền trình: con đường phía trước
  17. Mỗi người một phương trời
  18. Tử Lộ, Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước
  19. Tôi ngay: bề tôi trung thành của vua
  20. Đảng sơn đài: đảng cướp núi
  21. Dung nhan lạnh lùng (tiếng cổ): sắc đẹp tuyệt vời
  22. Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ
  23. Âu (ưu): lo
  24. Qua: ta. Bậu: ngươi (bạn, anh bạn)
  25. Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại
  26. Khi không: không dưng
  27. Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị
  28. Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn
  29. Báo trả ơn đức, đền đáp công lao
  30. Luận ngữ: "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", nghĩa là: thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng
  31. Thìn: răn, giữ
  32. Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị
  33. Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào
  34. Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm
  35. Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp. Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Từ phi: tên Huệ, người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ
  36. Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ
  37. Mai điểu: tranh mai và chim đẹp hài hòa. Đây nói thơ xướng họa, tình ý rất xứng hợp nhau
  38. Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ
  39. Vẹn chữ tùng: trọn đạo làm vợ (theo chồng)
  40. Ngưu Lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ
  41. Tùy nhi: trẻ theo hầu
  42. Tiền trình: việc đi đường vừa rồi
  43. Đòi cơn: nhiều cơn
  44. No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào
  45. Sao sao: dù thế nào
  46. Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa
  47. Thâm: sâu
  48. Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở