Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra[1].
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
290Giữa đường lại gặp người ra kinh kì,
Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
Nhớ câu bình thủy tương phùng[2],
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:
295"Chẳng hay danh tánh là chi,
Một mình mang gói ra đi việc gì?"
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn Minh tánh tự Ô-mi quê nhà".
Vân Tiên biết lẽ chánh tà,
300Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao[3],
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
305Kìa nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chơn một hồi...".
Cùng nhau bày họ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
Hớn Minh đi trước tựu trường,
310Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
315Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm[4] cho rồi".
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
320Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn-giang,
325Con người là Võ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy[5] dung nhan mặn mà.
Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia[6],
Con đi qua đó trao qua thơ này.
Con dầu bước đặng thang mây,
330Dưới chơn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chơn.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân qua hè.
335Lại xem dặm liễu đường hòe,
Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
340Trên nhành chim nói dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm kiểng coi người,
Kiểng xinh như vẽ người tươi như dồi[7].
Hàn-giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.
345Võ công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt[8] mối tơ đặng liền.
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sanh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
350Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Những e kẻ Tấn người Tần[9],
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai[10].
Xem đà đẹp đẽ hòa hai,
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng[11].
355Công rằng: "Ngãi tế[12] mới sang,
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa[13] lo gì".
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
360Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
Gần đây có một họ Vương,
Tên là Tử Trực văn chương tót đời[14].
Cha đà sai trẻ qua mời,
Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
365Thấp cao cao thấp biết tài,
Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu[15]".
Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
Võ Công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!
370Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu bình thủy hữu duyên[16] làm đề".
Song song hai gã giao kề[17],
Lục Vương hai họ đua nghề một khi.
375Cho hay kì lại gặp kì[18],
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành[19].
Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
380Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống[20] đã đành,
Khá khen hai họ tài lành hòa hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc[21] sánh vai một bầy.
385Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rày xin nhượng Tiên này làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình[22] cùng nhau".
Phút xem trăng đã đứng đầu,
390Vân Tiên vào chốn thơ lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chơn trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình[23].
395Gọi là chút nghĩa tống tình[24],
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
400Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung[25].
Thưa rằng: "Quân tử phó công[26],
Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa[27],
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời:
405Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng[28].
Quản bao chút phận má hồng,
Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương[29],
410Thiếp xin hai chữ tào khương[30] cho bằng.
Xin đừng tham đó bỏ đăng[31],
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
415May duyên rủi nợ dễ phô[32],
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần[33]".
Thể Loan vội vã lui chơn,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường-an.

Xa xa vừa mấy dặm đàng,
420Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
Trải qua thủy tú sơn kì[34],
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay[35].
Người hay lại gặp kiểng hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng-lai.
425Cùng nhau tả chút tình hoài[36],
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ[37] một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
430Chữ tài chữ mạng xưa hòa ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây[38]".
Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau[39]".
435Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa[40] đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Phút đâu gặp bạn cố tri,
440Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan-dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương-xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng[41] đôi mươi.
445Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
450Làm thơ mới biết bậc nào tài năng".
Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề[42]".
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
455Kìa là thuốc lá ướp ngâu[43],
Trà ve tuyết điểm rượu bầu cúc hương[44].
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
Bĩ bàng[45] trà rượu đã xong,
460Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi[46].
475Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ[47],
Cười người Tôn Tẫn không lừa.
470Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên[48]".
Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng[49]?"
Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
475Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương[50]"
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào[51],
480Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm[52],
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan[53],
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
485Ghét đời ngũ bá phân vân[54],
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng[55],
Sớm đầu tối đánh[56] lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
490Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông[57].
Thương thầy Nhan tử[58] dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia-cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phôi pha[59].
495Thương thầy Đồng tử[60]cao xa,
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên-lượng[61] ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ[62] chẳng may,
500Sớm dưng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc[63] đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".
505Trực rằng: "Chùa rách phật vàng[64],
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân[65].
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn[66] thuở xưa,
510Khó ngăn Sào Phủ khôn ngừa Hứa Do[67].
Di Tề chẳng khứng giúp Châu[68],
Một mình một núi ai hầu chi ai[69].
Ông Y ông Phó[70] ôm tài,
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
515Thái công xưa một cần câu[71],
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng[72] đã mấy đua bơi,
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu[73].
Trần Đoàn[74] chẳng chút lo âu,
520Gió trăng một túi công hầu chiêm bao[75].
Người nay có khác xưa nào?
Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
525Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
530Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đờn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt gẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước-lâm[76].
535Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Rừng nhu biển thánh[77] minh mông,
540Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
545Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường,
550Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ ba.
Vân Tiên vừa bước chơn ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ[78],
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
555Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi há nỡ lấp đường công danh!
Những lăm công toại danh thành,
560Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở liệu lời qui lai[79].
Tiểu đồng than vắn than dài,
Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay!
565Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.
Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
Bây giờ kíp rước thợ may,
570Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.
Dây rơm mũ bạc áo thùng,
Cứ theo trong sách Văn công[80] mà làm".
Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì!
575Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.
Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
Việc trong trời đất biết chi,
580Sao dời vật đổi còn gì mà trông!"
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau!
585Thương thay chín chữ cù lao[81].
Ba năm nhũ bộ[82] biết bao nhiêu tình.
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương[83].
Ai ai trông thấy cũng thương,
590Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
Dầu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
595Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại mấy lần xông pha".
Xảy đâu bạc tác[84] vừa ra,
Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
600Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.
Thấy nhau khó nổi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
605Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân,
610Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".
Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần[85]".
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần[86] đến đây.
615Non xanh nước bích vui vầy,
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
Nói rồi quày quã[87] ra đi,
620Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn:
"Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành[88].
625Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
630Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
635Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng,
640Trong non khó liệu giữa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu!
Mịt mù nào thấy chi đâu[89],
Chơn đi đã mỏi mình đau như dần.
645Có thân phải khổ với thân,
Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may!"
Đồng rằng: "Trời đất có hay,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
Một mình nhắm trước nhắm sau,
650Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang".

Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng-văn.
655Dắt nhau khi ấy hỏi phăn[90],
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang[91] mới đành.
Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
660Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bịnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
665Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy,
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu,
670Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y[92].
Gẫm trong Ngân hải tinh vi[93],
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang[94].
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang[95],
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân[96].
675Vị chi sẵn đặt quân thần[97],
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan[98].
Mạch thời đọc phú Lư-san[99],
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sinh.
Lục quân Tứ vật thang danh[100].
680Thập toàn Bát vị[101] sẵn dành nội thương.
Lại thông Bát trận tân phương[102],
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài[103]".
Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi".
685Ngang rằng: "Lục bộ[104] đều suy,
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng[105].
Cứ trong Kinh lạc[106] mà thông,
Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu[107].
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
690Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm[108].
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm[109],
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình[110].
Ngoài thời cho điểm vạn linh[111],
Trong thời cho uống hoàn tình[112] mới xong.
695Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phúc cho chàng,
Nào ai đòi cuộc đòi đàn[113] chi ai".
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
700Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
705Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,
Tiên sư[114] mách bảo một điềm chiêm bao.
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu[115]?
Tiểu đồng người khá qua cầu[116],
710Cùng ông thầy bói ở đầu Tây-viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
715Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào[117].
Huỳnh kim Dã hạc sách cao[118],
720Lục nhâm Lục giáp[119] chỗ nào chẳng hay.
Can chi[120] đều ở trong tay,
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành.
725Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi[121]?
Ứng vào rùa với cỏ thi[122],
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở đông phương,
730Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây"
Bói rằng: "Đinh mão năm may,
Hèn chi Giáp tí ngày rày chẳng an.
735Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta".
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
740Một giao hai sách lại ba hào trùng[123].
Trang thành là quẻ lục xung[124],
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hóa ra làm quẻ du hồn[125],
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan[126].
745Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình.
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho bịnh ấy đặng yên,
750Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày".
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay tiếng dậy đồn xa,
Tên là Đạo sĩ ở Trà-hương thôn".
755Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
760Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Pháp rằng: "Ấn[127] đã cao tay,
Lại thêm phù chú[128] xưa nay ai bì.
765Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quì lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn duổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
770Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh[129].
Pháp hay sái đậu thành binh[130],
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
Pháp hay đạo hỏa phó thang[131],
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang[132].
775Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
780Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".
785Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
790Người nằm ta chữa rối trao phù về".
Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề[133],
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".
795Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ[134] tọa tiền chứng miêng.
Thỉnh ông đại thánh Tề thiên[135],
800Thỉnh bà Võ hậu[136] đều liền đến đây.
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây[137],
Cùng bà Vương mẫu[138] sum vầy một khi.
Thỉnh ông Phật tổ A-di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
805Lại mời công chúa Ngũ-long[139],
Bình nam ngũ hổ hội đồng an dinh[140].
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Cùng là tam phủ Động-đình Xích-lân[141].
Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,
810Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khỏe mạnh như lời chẳng sai".
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
815Vào nhà thưa với thầy Ngang:
"Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
820Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác[142] đuổi đi khỏi vòng:
"Ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".
825Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Những lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn,
830Bơ vơ đất khách thon von[143] thế này.
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo[144] đỡ ngày gạo rau".
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt gần cầu Lá-buôn[145].
835Đương khi mưa gió luông tuồng,
Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương!
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao!
Dầu cho tài trí bực nào,
840Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chơn".
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".

845Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại-đề.
Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm[146],
850Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây".
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
855Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quận Đông-thành,
860Trong mình có bịnh bộ hành sao xong.
Lần hồi đến chốn giang trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này".
865Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kì".
Tiểu đồng vội vã ra đi,
870Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".
875Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình[147]!
Bấy lâu đất khách lưu linh,
880Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau.
Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình!".
Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông-thành thời thôi".
885Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phận mình đã mắc tai nàn,
890Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chơn cùng!".
895Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.
Sơn quân[148] ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
900Xem qua dấu đất ràng ràng[149] mới hay.
Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
905Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
"Bữa qua có thấy người tang[150] chăng là?"
Quán rằng: "Thôi đã ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
910Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
915Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?"
Người rằng: "Một gã con trai,
Ở đâu không biết lạc loài đến đây.
Chơn tay mặt mũi tốt thay,
920Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi!
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
925Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại-đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quải đơm[151].
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
930Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.

Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
935Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng[152] ngẩn ngơ.
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang sao mọc[153] mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
940Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời[154].
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha[155].
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
945Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ[156].
950Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chơn tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
955Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: "Người ở cùng ta.
Hôm mai hẩm hút[157] với già cho vui".
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
960Thân tôi như thể trái mùi[158] trên cây.
May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
965Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi[159] mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
970Khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm[160],
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
975Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn-giang."
Tiên rằng: "Vậy cũng một làng,
Võ công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,
980Khói ba khúc vịnh thì lần đến nơi."
Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
985Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử[161] ơn sâu,
Xin đem tới đó trước sau cho tròn."
Ngư rằng: "Làm đạo rể con,
990Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim.
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
995Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi.
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giàu.
Đã ba thứ tóc trên đầu,
1000Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".

Vân Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng đã[162] tách vời đưa sang.
Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
Võ công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
1005Chẳng qua sợ thế gian cười,
Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa!
Ngư ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".
Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,
1010Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.
Nhớ xưa trong núi Lư-san,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên[163].
Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạng Võ qua miền Ô-giang[164].
1015Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".
Một lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giã lui chơn xuống thuyền.
Võ công khôn ngớt lòng phiền,
1020Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Ngươi hãy ngồi đây,
Cho ta trở lại sau này liệu toan".
Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
1025Mặc con toan liệu làm sao,
Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
Loan rằng: "Gót đỏ như son,
Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn?
Ai cho sen muống một bồn,
1030Ai từng chanh khế sánh phồn[165] lựu lê?
Thà không trót chịu một bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu.
Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
Rể đâu có rể đui mù thể ni.
1035Đã nghe người nói hội này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.
Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh".
Công rằng: "Muốn trọn việc mình,
1040Phải toan một chước dứt tình mới xong.
Nghe rằng: trong núi Thương-tòng,
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Đông-thành ngàn dặm còn xa,
Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
1045Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu[166] thở than.
Võ công ra trước dỗ chàng:
"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành".
Ra đi đương lúc tam canh,
1050Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay[167] chèo quế dời thuyền tách xa.
Tiên rằng: "Các chú đưa ta,
Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
1055Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
Lặng nghe vẳng tiếng hai bên,
Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hãi hùng,
1060Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình.
Nực cười con tạo trớ trinh[168],
Chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao.
Ngẫm mình tai nạn biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
1065Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo[169].
Trong hang sau trước quạnh hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
Oan gia nợ đã khéo gây,
1070Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Đã đành xa cõi nhơn gian,
Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng[170].
1075Năm ngày chịu đói khát ròng,
Nhờ ba huờn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần[171] xem thấy ai hoài,
Xét trong mình gã có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên.
1080Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra.
Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lại sơn trung,
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.
1085Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới đường đại lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
Hay là yêu quái tà gian,
1090Rung cây nhát lão làm đuờng hại nhân.
Lão tiều liền bước lại gần,
Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.
Chi bằng lên tiếng hỏi han:
"Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
1095Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
"Ít người trong tuyết đưa than[172],
1100Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương".
Vân Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay:
"Ngửa trông lượng cả cao dày,
Cứu trong một buổi ơn tày tái sanh.
1105Mai sau về tới Đông-thành,
Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
Làm ơn mà lại trông người sao hay?
Già hay thương kẻ thảo ngay,
1110Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
Tiên rằng. "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi[173].
Lại thêm rũ liệt tứ chi,
Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".
1115Lão tiều vội ngửa áo tơi,
Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".

Khỏi rừng ra tới ngã ba,
1120May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
Lão tiều lật đật bôn trình[174],
Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
1125Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh[175],
Cớ sao nên nỗi thân hình thể ni?"
Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi,
Thân này nào có khác gì cây trôi.
Linh đinh gió dập sóng dồi,
1130Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu.
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
1135Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
"Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành.
Này hai lượng bạc trong mình,
Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
Tiều rằng: "Vốn lão tình không,
1140Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
1145Công hầu phú quý mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
Vân Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại lâm sơn,
1150Tiên Minh hai gã đều hoàn am mây[176].
Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?"
Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.
1155Anh thời về trước tỉnh thân[177].
Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
Đi vừa tới huyện Loan-minh,
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
1160Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì[178].
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
1165Án đày ra quận Sóc-phang,
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
1170Lại bày một khúc tai ương phận mình.
Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thương cội xuân huyên[179],
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
1175Trông con như hạn trông dào,
Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.
Vầng mây giăng bạc trên đầu,
Ba năm chưa trọn một câu sanh thành[180].
Hữu tam bất hiếu đã đành[181],
1180Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
Tưởng thôi như cắt ruột gan,
Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".
Minh rằng: "Người ở trong trần,
Có khi phú quí có lần gian nan.
1185Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.
Thôi thôi anh chớ vội về,
Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
Bao giờ hết lúc tai nàn,
1190Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La[182] sớm gặp cũng xinh,
Muộn mà Khương tử[183] cũng vinh một đời.
Nên hư có số ở trời,
Bôn chôn[184] sao khỏi đổi dời sao xong".
1195Vân Tiên khi ấy an lòng,
Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.

Võ công làm việc trớ trinh[185],
Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
1200Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
Ngày ngày trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
1205Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,
Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền[186] xa chơi.
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
1210Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,
Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.
Trời sao nỡ phụ tài lành,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
1215Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.
Người đà sớm thác ta còn làm chi?
Trong đời mấy bực cố tri,
Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm?".
Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
1220Tủi duyên con trẻ sắt cầm[187] dở dang.
Thôi thôi khuyên chớ thở than,
Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
Tới đây thời ở lại đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia[188].
1225Phòng khi hôm sớm vào ra,
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên".
Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên[189],
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
1230Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?
Hay là học thói nước Tề,
Vợ người tử Củ đưa về Hoàn công[190].
1235Hay là học thói Đường cung[191],
Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?
Người nay nào phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm[192].
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
1240Người ta há phải là cầm thú sao?"
Võ công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra,
Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
1245Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng[193],
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
Chẳng ưng thời cũng làm khuây,
1250Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng?".
Trực rằng: "Ái Lữ Phụng-tiên,
Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi[194]?
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa?
1255Hổ hang vậy cũng người ta,
So loài cầm thú vậy mà khác chi?
Vân Tiên anh hỡi cố tri,
Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
1260Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành.
Võ công hổ thẹn trong mình,
Năm ngày nhuốm bịnh thất tình chết oan[195].
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.

   




Chú thích

  1. Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu
  2. Bình thủy tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp
  3. Bằng hữu chi giao: tình bạn bè
  4. Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên
  5. Hai bảy: mười bốn
  6. Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) người Việt (phía Nam) chung một nhà
  7. Dồi: trau dồi son phấn
  8. Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hòa thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hòa nhau)
  9. Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả
  10. Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹp), chỉ vợ chồng tốt đôi
  11. Dâu nam giản: người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ Kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đông sàng: chỉ chàng rể tốt
  12. Ngãi tế: con rể
  13. Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ
  14. Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người
  15. Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai
  16. Bình thủy hữu duyên: bèo nước có duyên
  17. Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau
  18. : chỉ người tài giỏi khác thường
  19. Bạch Hàm, Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ văn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến
  20. Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước
  21. Én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc (Trực nói nhún)
  22. Thượng trình: lên đường
  23. Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lê đình: sân có trồng lê
  24. Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm
  25. Liễm dung: nghiêm chỉnh dáng điệu để tỏ ý tôn trọng
  26. Phó công: đi thi lập công danh
  27. Nôn nao không yên, như mưa, như gió luôn xao động
  28. Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng
  29. Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt
  30. Tào khương: tấm cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn
  31. Nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đăng là hai dụng cụ đan bằng tre để bắt cá
  32. May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, lẽ đó bày ra rành rành
  33. Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ. Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú
  34. Sông đẹp núi lạ, nói cảnh đẹp
  35. Gặp thời, thỏa lòng đua sức đua tài
  36. Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng
  37. Cửa Võ: mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng năm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hóa rồng. Nhân đó, cửa Vũ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi là vượt qua Vũ môn
  38. Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng
  39. Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn
  40. Kinh địa: đất kinh đô
  41. Tác chừng: tuổi tác chừng vào khoảng
  42. Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề
  43. Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm
  44. Trà ve: chè đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: lấm tấm màu tuyết, nói trà ngon Cúc hương: hương hoa cúc
  45. Bĩ bàng: đầy đủ, tươm tất
  46. Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn
  47. Bất tài đồ thơ: không có tài năng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức học kém cỏi
  48. Tôn Tẫn là bạn học binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để ghìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẫn nhưng ông không đề phòng (không lừa, không lực chọn)
  49. Tuyền: trọn đủ cả. Ý cả câu: ông có thông thuộc cả kinh sử hay không?
  50. Hay ghét hay thương: biết ghét và ghét thương
  51. Tầm phào: vu vơ, hão huyền
  52. Kiệt Trụ: vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạo ngược, vô đạo, hoang dâm
  53. U Lệ: U Vương và Lệ Vương thời nhà Chu làm nhiều việc bạo ngược, vô đạo. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối
  54. Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, năm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn
  55. Đời thúc quí: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân băng: chia lìa
  56. Sơm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lại đánh
  57. Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học
  58. Nhan tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử
  59. Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành
  60. Đổng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán
  61. Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn
  62. Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu
  63. Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học
  64. Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn
  65. Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước
  66. Nghiêu Thuấn: hai vua truyền thuyết được nhà nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân
  67. Sào Phủ Hứa Do: hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu
  68. Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi Thú Dương hái rau vi mà ăn, không chịu ăn thóc nhà Chu. Chăng khứng: không chịu
  69. Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả
  70. Hai đại công thần nhà Thương
  71. Thái công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ Vương dựng nghiệp nhà Chu
  72. Nghiêm Lăng: ẩn sĩ đời vua Quang Vũ
  73. Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh tao ẩn dật. Áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát
  74. Trần Đoàn: học rộng, tinh thông Kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên
  75. Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao
  76. Bảy người đời Tấn, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền)
  77. Rừng nhu biển thánh: đạo Nho dày như rừng, rộng như biển
  78. Khai phong: mở phong thư. Sự cơ: sự tình, nông nỗi
  79. Qui lai: trở về, quay về (vì mẹ chết)
  80. Sách Văn công: sách quy định nghi lễ về tang ma cưới xin
  81. Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con
  82. Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm
  83. Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài năng lỗi lạc của Vân Tiên
  84. Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng lứa
  85. Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao
  86. Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn
  87. Quày quã: vội quay phắt ngay đi
  88. Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người
  89. Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù
  90. Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối
  91. Đầu thang: bốc thuốc
  92. Y học, Thọ thế, Đông y là các bộ sách y học cổ truyền
  93. Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt
  94. Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai
  95. Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng
  96. Ngự Toản, Hồi xuân: các sách thuốc cổ
  97. Quân thần: vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y
  98. Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận
  99. Lư san: bài phú dạy phép xem mạch
  100. Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết
  101. Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy
  102. Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn
  103. Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài
  104. Lục bộ: sáu bộ mạch
  105. Phù hồng: mạch nổi
  106. Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người
  107. Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hỏa: dương khí (thận hỏa)
  108. Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt (giáng hỏa). Tư âm: làm vượng âm lên
  109. Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng
  110. Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại
  111. Vạn linh: thuốc chữa mắt đau
  112. Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra
  113. Đòi cuộc đòi đàn: đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước
  114. Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc
  115. E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỷ thần nên bị quỷ thần phạt
  116. Cầu: cầu xin giúp
  117. Châu Diệc: Kinh Dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán
  118. Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán
  119. Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán
  120. Can, chi: trong khoa lý số
  121. Chiêm: bói. Lộ trình: nói việc đi đường
  122. Mai rùa, cỏ thi là hai thứ dùng để bói
  123. Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa
  124. Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau
  125. Quẻ du hồn: quẻ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách
  126. Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở
  127. Ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp
  128. Phù chú: lá bùa và câu thần chú
  129. Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất
  130. Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hóa thành binh lính
  131. Đạo hỏa: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi
  132. Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất
  133. Hề: hề đồng
  134. Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Tọa tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho
  135. Tôn Ngộ Không
  136. Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương
  137. Vị tướng đời Đường
  138. Bà tiên cai quản tiên nữ
  139. Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương
  140. Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại
  141. Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân
  142. Tráo chác: lừa dối, trở mặt
  143. Thon von: cô đơn sa sút gian nguy
  144. Khuyên giáo: đi xin của bố thi
  145. Cầu bắc qua rạch Lá Buôn (Biên Hòa)
  146. Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng
  147. Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn
  148. Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ
  149. Ràng ràng: rành rành
  150. Người tang: người bận áo tang
  151. Quảy đơm: cúng lễ
  152. Cô bồng: con thuyền lẻ loi
  153. Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào
  154. Vời: khoảng nước rộng, lòng sông
  155. Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện
  156. Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa
  157. Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo
  158. Trái mùi: trái chín nục
  159. Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông
  160. Chích, đầm: ao hồ
  161. Cứu tử: cứu cho khỏi chết
  162. Chẳng đã: cực chẳng đã
  163. Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông
  164. Hạng Vũ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông (nhưng Hạng Vũ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát
  165. Phồn: giống, thứ hạng
  166. Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính
  167. Gay: vặn quai chèo chặt cọc chèo
  168. Trớ trinh: trớ trêu
  169. Cheo: loài nai xạ hương
  170. Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi. Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn
  171. Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian
  172. Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi
  173. Không hòa mùi chi: không ăn uống gì
  174. Bôn trình: lên đường
  175. Nhơn huynh: người anh tốt
  176. Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh
  177. Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ
  178. Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa
  179. Xuân huyên: cha mẹ
  180. Để tang ba năm cũng chưa đủ để báo đáp công sinh thành của cha mẹ
  181. Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu
  182. Cam La: mưu sĩ thời Chiến Quốc
  183. Khương Tử Nha
  184. Bôn chôn: nôn vội
  185. Lừa dối
  186. Huỳnh tuyền: suối vàng
  187. Sắt cầm: tình duyên
  188. Thất gia: chỉ vợ chồng
  189. Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó
  190. Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em
  191. Đường cung: cung vua Đường
  192. Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần vương (Tần Thủy Hoàng)
  193. Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa. Nằng nằng: quyết một bề không đổi
  194. Điêu Thuyền dùng mĩ nhân kế quyến rũ Lã BốĐổng Trác, khiến Bố giết Trác
  195. Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộn