Bước tới nội dung

Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/III

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

1265Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
Hà-khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyện Đông-thành chăn dân[1].
Ra tờ khắp hết xa gần,
1270Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi.
Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông vưng lịnh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi chuyện Vân Tiên,
Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
1275Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang,
Con tôi nhuốm bịnh giữa đàng bỏ thây.
Biệt tin từ ấy nhẫn nay[2],
Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang!"
Kiều công trong dạ bàng hoàng,
1280Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga:
"Lục ông nói lại cùng cha.
Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo.
Riêng than chút phận tơ điều[3],
Hán-giang chưa gặp Ô-kiều lại rơi[4]".
1285Nàng rằng: "Phải thiệt như lời,
Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa,
1290Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn".
Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chơn mặt mũi giống in con mình.
Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
1295"Thương con phận bạc lắm thay,
Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?"
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:
1300"Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
Người đời như bóng phù du[5],
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng[6].
Cũng chưa đồng tịch đồng sàng[7],
Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà!
1305Cũng như cửa sổ ngựa qua,
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền".
Nàng rằng: "Trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
Công rằng: Chút nặng tình xưa,
1210Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi?
Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này.
1215Bây giờ con lại thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
Ngửa trông đất rộng trời cao,
Tre còn măng mất lẽ nào cho cân!"
Lục ông từ tạ lui chân,
1320Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
Nguyệt Nga nhuốm bịnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
"Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu.
1325Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,
1330Thương người quân tử biết đời nào phai.
Tiếc thay một đấng anh tài,
Việc văn việc võ nào ai dám bì?
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!
1335Thương vì hai tám tuổi đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chẳng đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
1340Vùa hương bát nước[8] ai dành ngày sau.
Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là?"
1345Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
Đờn cầm ai nỡ dứt dây,
1350Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy gánh giữa đường chẳng hay.
Nay đã loan phụng lẽ bầy,
Nệm nghiêng gối chích phận này đã cam.
1355Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người[9].
Thân con còn đứng giữa trời,
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi".
Kiều công trong dạ chẳng vui:
1360"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
1365Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước[10] kết đàng sui gia.
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy,
1370Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng.
Xảy đâu giặc mọi hành hung,
Ô-qua[11] quốc hiệu binh nhung dấy loàn.
Đánh vào tới ải Đồng-quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần:
1375"Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra?"
Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vội vàng quì xuống tâu qua ngai vàng:
"Thuở xưa giặc mọi dấy loàn,
1380Vì ham sắc tốt phá tàn Trung-hoa.
Muốn cho khỏi giặc Ô-qua,
Đưa con gái tốt giao hòa thời xong.
Nguyệt Nga là gái Kiều công,
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
1385Nàng đà có sắc khuynh thành,
Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.
Đưa nàng về nước Ô-qua,
Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh".
Sở vương nghe tấu thuận tình,
1390Châu phê dạy sứ ra dinh Đông-thành.
Sắc phong Kiều lão thái khanh:
"Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi,
Nguyệt Nga nàng ấy nên người,
Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ".
1395Kiều công vâng lịnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
Nguyệt Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất tình trâm nọ biếng cài,
1400Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo:
"Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên[12].
Hạnh Ngươn[13] xưa cũng chẳng yên,
Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn ghi.
1405Hai nàng chẳng đã phải đi,
Một vì ngay chúa một vì thảo cha.
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì-linh,
1410Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha.
Tới nay phận bạc là ta,
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần,
Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên.
1415Nghĩa tình nặng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
Sao sao[14] một thác thời xong,
Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu".
Kiều công nương gối đang lo,
1420Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh[15]:
"Chẳng qua là việc triều đình,
Nào cha có muốn ép tình chi con".
1425Nàng rằng: "Con kể chi con,
Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
Thương cha tuổi tác đã cao,
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
Tuổi già bóng xế nhành dâu,
1430Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
Công rằng: "Chẳng sá việc nhà,
Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
Hôm nay đã tới mồng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành".
1435Nàng rằng: "Việc ấy đã đành,
Còn lo hai chữ ân tình chưa xong.
Con xin sang lạy Lục ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền,
1440Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau".
Kiều công biết nghĩ trước sau,
Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra rước một khi,
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
1445Ngày lành giờ ngọ đăng đàn,
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
1450"Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay!"
Bảy ngày rồi việc làm chay,
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
"Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
1455Rày vua gả thiếp về Phiên,
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
Chẳng chi cũng gọi là dâu,
Muốn lo việc nước phải âu đạo nhà.
Một ngày một bước một xa,
1460Của này để lại cho cha dưỡng già".
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xe giá bộn bề,
Năm mươi thể nữ hầu kề chơn tay.
1465Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
Công rằng: "Thật dạ xót xa,
1470Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu".
Nàng rằng: "Non nước cao sâu,
Từ đây xa cách khôn hầu thấy cha.
Thân con về nước Ô-qua,
Đã đành một nỗi làm ma đất người.
1475Hai phương nam bắc cách vời,
Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha".
Kiều công lụy ngọc nhỏ sa,
1480Các quan ai nấy cũng là đều thương.
Chẳng qua việc ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.
Buồm trương thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông.
1485Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ,
1490Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
Than rằng: "Nọ nước kìa non,
Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?"
Quân hầu đều ngủ đã lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình:
1495"Vắng người có bóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
Vân Tiên anh hỡi có hay?
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng".
Than rồi lấy tượng vai mang,
1500Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
Kim Liên thức dậy mới hay,
Cùng quân thể nữ một bầy đều lo.
Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
Thầm toan mưu kế chẳng cho lậu tình:
1505"Việc này là việc triều đình,
Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.
Trá hôn về nước Ô-qua,
1510Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?"
Tính rồi xong xả chước mầu,
Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan.
Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
1515Nào hay tì tất Kim Liên,
Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
1520Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay?
Quan-âm thương đấng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
1525Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga!
Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày.
Đôi ba năm nữa gần đây,
Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi".
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,
1530Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.
Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?

Một mình luống những bâng khuâng,
Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông.
1535Một mình mang bức tượng chồng,
Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
Ông rằng: "Nàng ở hà phương,
Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?"
Nàng rằng: "Trận gió hôm qua,
1540Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này.
Tối tăm sẩy bước tới đây,
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng".
Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,
Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh.
1545Đầu đuôi han hỏi sự tình,
Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
Bùi ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con.
Rằng: "Ta sanh đặng chồi non,
1550Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh.
Trong nhà không gái hậu sinh,
Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời".
Nguyệt Nga ở đã an nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.
1555Một lo về nước Ô-qua,
E vua bắt tội cha già rất oan.
Hai lo phận gái hồng nhan,
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì[16]:
Nguyệt Nga luống những sầu bi,
1560Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,
Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.
Thấy nàng thờ bức tượng nhân,
Nghiệm trong tình ý dần lân[17] hỏi liền:
1565"Tượng này sao giống Vân Tiên?
Bấy lâu thờ có linh thiêng đều gì?"
Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
Một câu chánh tiết[18] phải ghi vào lòng.
Trăm năm cho vẹn đạo tòng,
1570Sống sao thác vậy một chồng mà thôi".
Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa?
Làm người trong cõi gió mưa,
Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào.
1575Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
Ở đời ai cậy giàu sang,
1580Ba xuân[19] mòn hết, ngàn vàng khôn mua.
Hay chi như vãi ở chùa,
Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh.
Linh đinh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước biết mình vào đâu?
1585Ai từng mặc áo không bâu[20],
Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau?
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình".
Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,
1590Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu[21],
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình".
Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh,
Sao không soi xét để mình ngồi không.
1695Hồ-dương xưa mới góa chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa[22].
Hạ Cơ[23] lớn nhỏ đều ưa,
Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân.
Hớn xưa Lữ hậu thanh xuân,
1600Còn vừa Cao tổ mấy đành Dị Ki[24].
Đường xưa Võ Hậu thiệt gì,
Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già[25].
Cứ trong sách vở nói ra,
Một đời sung sướng cũng qua một đời.
1605Ai ai cũng ở trong trời,
Chính chuyên trắc nết[26] chết thời cũng ma.
Người ta chẳng lấy người ta,
Người ta đâu lấy những là tượng nhân?
Cho nên tiếc phận hồng nhan,
1610Học đời Như Ý vẽ chàng Văn Quân[27]".
Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân,
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:
1615"Làm người chấp nhứt[28] sao đành,
Hễ là lịch sự có kinh có quyền[29].
Tới đây duyên đã bén duyên,
Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai?
Nhớ câu: Xuân bất tái lai,
1620Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn.
Làm chi thiệt phận hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
Vọng phu xưa cũng trông chồng,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
1625Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy[30] cùng con lão một nhà cho xuôi".
Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,
Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy.
Tôi xin dám gởi lời này,
1630Hãy tua[31] châm chậm sẽ vầy nhơn duyên.
Tôi xin lạy tạ Vân Tiên,
Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung".
Cha con thấy nói mừng lòng,
Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.
1635Chiếu hoa gối sách bộn bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra[32].
Xảy vừa tới lúc canh ba,
Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ.
Dán trong vách phấn một tờ,
1640Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi.
Hai bên bờ bụi rậm rì,
Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đôm đốm sáng nhờ đi theo.
1645Qua truông rồi lại lên đèo,
Dế kêu giắng giỏi sương gieo lạnh lùng.
Giày sành đạp sỏi[33] thẳng xông,
Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,
1650Tìm nơi bàn thạch ngỏ hầu nghỉ chưn.
Người ngay trời phật cũng vưng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,
Khá tua[34] gắng gượng về nhà cùng ta.
1655Khi khuya nằm thấy Phật bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây".
Nguyệt Nga bán tín bán nghi,
Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà.
Bước vào thấy những đàn bà,
1660Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào.
Hỏi thăm ra chốn Ô-sào,
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi[35]!

   




Chú thích

  1. Chăn dân: trị dân, cho dân yên ổn làm ăn
  2. Nhẫn nay: đến nay, tới bây giờ
  3. Tơ điều: tơ đỏ xe duyên
  4. Nguyệt Nga chưa nên nghĩa vợ chồng với Vân Tiên, cũng như Chức nữ, Ngưu lang chưa kịp gặp nhau trên sông Ngân mà nhịp cầu Ô đã rơi mất, không bao giờ gặp lại được nữa
  5. Phù du: con vờ
  6. Công phu lỡ làng: bỏ sức ra làm dang dở
  7. Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu
  8. Vùa hương bát nước: bát hương và chén nước thờ
  9. Vừa đưa chồng về lại bên kia sông Ngân, thì đã lại đến Cầu Lam rước người tình khác. Ý nói mất chồng này tìm chồng khác
  10. Mai chước: người làm mối
  11. Ô Qua: tên ngầm chỉ giặc Qua Oa ở bể vào cướp phá miền Châu Đốc, Hà Tiên
  12. Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế bị tuyển làm cung nữ. Nàng không chịu đút lót cho Mao Diên Thọ nên bị y vẽ xấu đi, vua không vời đến. Về sau bị chọn tiến vua Hung Nô
  13. Hạnh Ngươn: nhân vật truyện Nhị độ mai
  14. Sao sao: dù thế nào đi nữa
  15. Thân danh: thân mình và danh dự
  16. E rằng người che chở và nuôi nấng mình có mưu toan gì?
  17. Dần lân: lân la dần dần
  18. Chánh tiết: trinh tiết, ngay thẳng
  19. Ba xuân: ba tháng xuân, tuổi xuân
  20. Bâu: cổ áo
  21. Chẳng phen: chẳng bắt chước. Thói nước Trịnh: thói tà dâm như trai gái nước Trịnh trèo tường đón ngõ rủ rê nhau ra nơi đồng nội để thỏa lòng dục
  22. Công chúa Hồ Dương chồng chết, phải lòng Tống Hoằng
  23. Hạ Cơ: con gái Trịnh Mục Công, xinh đẹp, lẳng lơ, có chồng mà vẫn một lúc ngoại tình với nhiều người
  24. Lữ Hậu: vợ Hán Cao Tổ. Cao Tổ mất, Lữ Hậu tư thông với Dị Ki (Thẩm Tự Cơ) cho Tự Cơ làm tả thừa tướng để tiện bề chung chạ
  25. Võ Hậu thông tình với hai anh em Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi (tức Di Tôn, Tam Tư)
  26. Chính chuyên: một bề tiết hạnh. Trắc nết: mất hết
  27. Nàng Như Ý sau khi cứu Văn Quân thoát nạn, đem lòng yêu chàng, vẽ hình chàng. Sau hai người lấy nhau (tuồng cổ)
  28. Chấp nhứt: câu nệ về một lẽ
  29. Hễ là người trải đời thì phải biết cả chấp kinh (tuân thủ nguyên tắc) lẫn tòng quyền (vượt ngoài nguyên tắc)
  30. Vầy: sum họp
  31. Tua: nên phải
  32. Gối sách: gối gấp nhiều lớp, có thể chồng lên nhau mà ngồi dựa. Bát bửu: tám vật quý là gươm, giáo, búa... bằng đồng hay bạc để bày cho thêm sang trọng
  33. Giầy xéo lên sành, đạp lên sỏi
  34. Khá tua: phải nên
  35. Nguyệt Nga đã trôi dạt tới chốn cửa ải và núi non, xa xôi cách trở