Bước tới nội dung

Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/IV

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

1665Đoạn này tới thứ ra đời[1],
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bịnh đường xa,
1670Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
1675Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
1680Đã đành hai chữ quy y[2] chùa này".
Tiên rằng: "Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau[3],
Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
1685Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay".
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
1690Ai dè con sống trên đời thấy cha.
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Kể đã mấy năm,
Con mang tật bịnh ăn nằm nơi nao?"
1695Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an?"
Đặt bày lễ vật nghiêm trang,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh[4]:
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
1700Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bề nguồn nước cội cây[5],
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng[6].
Suy trang nằm giá khóc măng[7],
Hai mươi bốn thảo[8] chẳng bằng người xưa".
1705Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề[9],
1710Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
Đặng con đến đó đáp câu ân tình".
1715Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên.
"Kiều công rày ở Tây-xuyên,
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền[10] đuổi ra".
Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt Nga
1720Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng".
Tây-xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt Kiều công khóc liền:
"Nguyệt Nga rày ở nước Phiên,
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.
1725Mấy thu Hồ Việt đôi phang[11],
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu[12] cho đành?
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh,
1730Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn[13]".
Nói rồi lụy nhỏ đôi cơn,
"Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
Thôi con ở lại bên này,
Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già".
1735Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
Năm sau lịnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
1740Kinh sư[14] ngàn dặm một đường thẳng ra.
Vân Tiên dự trúng khôi khoa[15],
Đương trong nhâm tý thiệt là năm nay.
Nhớ lời thầy nói thật hay,
Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.
1745Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô-qua,
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
Sở Vương phán trước ngai vàng,
1750Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong[16].
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh[17].
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
1755Ngày xưa mắc án trốn di,
Phải về nương náu từ bi ẩn mình".
Sở Vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó tướng bình di[18],
1760Tiên Minh tương hội[19] xiết gì mừng vui.
Nhứt thinh phấn phát oai lôi[20],
Tiên phuông hậu tập[21] trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc[22] phá thành Ô-qua.
1765Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Phút đâu binh đáo quan thành[23],
Ô-qua xem thấy xuất hành cự đang[24].
Tướng Phiên hai gã đường đường,
1770Một chàng Hỏa Hổ một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hỏa Hổ Thần Long một hồi.
1775Hớn Minh chùy giáng dường lôi[25],
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
1780Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô[26].
Một mình lướt trận xông vô,
Thấy người Cốt Đột biến hô yêu tà.
1785Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan.
Phép tà Cốt Đột hết phang,
1790Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
Trung tiên tả hữu lưỡng biên,
Trạng nguyên Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa kịp rày đuổi theo.
1795Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao[27].
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi!
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
1800Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đường núi phút đà tam canh[28].
1805Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.

Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi,
1810Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
"Quan-âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đà đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
1815Khôn trông mồng bảy đêm thu,
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao[29].
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau".
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
1820Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
1825Lão bà lật đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
Vân Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô-qua,
1830Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây".
Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già".
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sanh nghi.
1835Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường".
Lão bà chẳng dám lời gian:
1840"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Tiên rằng: "Nàng xách lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
1845Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng: "Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
1850"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đà về chốn cửu tuyền,
Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng".
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn:
"Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?"
1855Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn[30],
1860Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ[31],
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
1865Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài.
Khúc nôi[32] xin cứ đầu bài phân qua".
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưa
Ân tình càng kể càng ưa,
1870Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
1875Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng: "Tẩu tẩu[33] ở đâu,
Cho em ra mắt chị dâu thể nào?"
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
1880Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã sang miền Ô-qua.
May đâu sum hiệp một nhà,
Giặc đà an giặc khải ca hồi trào".
1885Tiên rằng: "Nàng tính thể nào?"
Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
Lịnh tha tội trước mới nên về nhà".
Trạng nguyên từ giã lão bà,
1890Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
"Tôi về đem bức tượng này,
Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà".
Tiên Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại trào ca đề huề[34].
1895Sở Vương nghe trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở Vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
1900Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ".
1905Lệnh truyền mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,
1910Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu".
Thái sư trước bệ quì tâu:
"Ô-qua dấy động qua mâu[35] cũng vì
1915Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân".
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng:
1920"Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng,
Khôn soi chậu úp[36] cũng mang tiếng đời.
1925Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan".
Trạng nguyên tâu trước trào đàng:
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà,
1930Hại tôi buổi trước cũng đà ghê phen[37]".
Sở Vương phán trước bệ tiền:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền[38] mà thôi.
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng[39].
1935Hớn xưa có gã Đổng công[40],
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa.
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
1940Rắp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà".
Sở vương phán trước trào ca:
"Thái sư cách chức về nhà làm dân.
1945Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
1950Trẫm cho phục chức làm quan Đông-thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà".

Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
1955Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
1960Mặt nhìn khắp hết miệng chào: "Các anh!".
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan".
1965Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi.
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dầu cho có sống làm gì nên thân?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,
1970Vốn em mới dại một lần xin dung".
Trạng rằng: "Hễ đấng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi".
1975Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
Vội vàng cúi lạy chơn lui ra về.
Còn người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
Hớn Minh Tử Trực vào tâu,
1980Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
1985Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông-thành.
Võng điều gươm bạc lọng xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
1990Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng[41],
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
1995Tiểu đồng trước giữ mộ phần.
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
2000Còn đương thơ thẩn vào ra Đại-đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng:
"Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
Thỏa tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay?"
2005Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
Người ngay trời phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
2010Ngó lên bài vị[42] lại xui lòng phiền.
Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
"Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì?
Ông nào mất xuống âm ti,
Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
2015Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải người đồng tử mắc nàn chốn ni?"
Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn[43].
Ai dè còn thấy bổn quan[44],
2020Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại-đề.
Đoạn thôi xe giá ra về,
Tuần dư[45] phút đã gần kề Hàn-giang.
2025Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu;
"Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
2030Phải ra đón rước lộ trình họa may".
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.
2035Dầu người còn nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh phấn ra phòng[46] rước duyên.
Nay đà tới thứ trạng nguyên,
2040Hàn-giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng châu báu áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều,
Ngư tiều nay đặng danh biêu[47],
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
2045Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên.
Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
2050Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này".
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy.
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi[48]".
2055Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
Ca ca sao chẳng chịu đi[49],
2060Về cho tẩu tẩu để khi xách giày".
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy chơn rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
2065Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
2070Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.

*

* *


2075Trạng nguyên về tới Đông-thành
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ[50] sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
2080Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sanh con sau nối gót lân[51] đời đời.

   




Chú thích

  1. Ra đời: ra hoạt động, giúp đời
  2. Quy y: đi tu
  3. Hẩm hút tương rau: cảnh nghèo
  4. Minh sinh: mảnh lụa, vải hay giấy dài ghi tên họ, chức tước người chết để cúng
  5. Người ta có tổ tiên cha mẹ như nước có nguồn cây có gốc
  6. Chín trăng: chín tháng (mẹ mang thai con chín tháng)
  7. Nằm giá: nằm trên băng giá. Sổ Liêu xưa nằm trên băng để băng tan, bắt được cá chép về cho mẹ ăn chữa bệnh. Khóc măng: Mạnh Tông thương mẹ vốn thích ăn măng. Mùa đông ông vào rừng kiếm măng không được, ôm trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc
  8. Nhị thập tứ hiếu: 24 gương hiếu xưa
  9. Ra bề: ra bề thế
  10. Biếm quyền: giáng chức quan
  11. Hồ phương Bắc, Việt phương Nam
  12. Chia bâu: chia li
  13. Kiều công mong cho Nguyệt Nga sẽ thành gia thất và sinh được con hay
  14. Kinh sư: kinh đô
  15. Khôi khoa: đỗ đầu (trạng nguyên)
  16. Chỉ: lệnh vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn
  17. Đề binh: đem binh đi đánh giặc
  18. Bình di: dẹp giặc
  19. Tương hội: cùng hội họp với nhau
  20. Một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm làm mọi người phấn khởi
  21. Tiên phong: quân xông trận mặt trước. Hậu tập: quân đánh bọc mặt sau
  22. Bình tặc: dẹp yên giặc
  23. Binh đáo quan thành: quân đến trước cửa thành
  24. Ra quân, chống trả
  25. Dường lôi: như sấm sét đánh
  26. Siêu: binh khí có lưỡi dài. Ngựa ô: ngựa lông đen
  27. Không quản hiểm nghèo
  28. Tam canh: canh ba
  29. Nguyệt Nga không mong gặp được Vân Tiên như Chức Nữ gặp Ngưu Lang
  30. Thề bể hẹn non, bền chặt
  31. Bảng lảng bơ lơ: kinh ngạc ngẩn người
  32. Khúc nôi: nỗi niềm, sự tình
  33. Tẩu tẩu: chị dâu
  34. Triều ca: buổi thiết triều. Đề huề: dắt tay nhau cùng đi
  35. Qua mâu: binh khí thời xưa
  36. Chậu úp: nói nơi tối tăm, ánh sáng không lọt tới, trong ngoài không thông nhau, ví nỗi oan không cách giải tỏ
  37. Ghê phen: nhiều phen
  38. Tướng ngỏ tôi hiền: khanh tướng và bầy tôi hiền
  39. Chín trùng: vua
  40. Đổng công: tức Đổng Trác
  41. Ý nói thản nhiên như không
  42. Bài vị: miếng gỗ hay mảnh giấy cứng, mặt có ghi tên người chết để thờ
  43. Các thứ lớp từ trước đến nay
  44. Chỉ Vân Tiên
  45. Tuần dư: hơn mười ngày
  46. Phòng: hóng chờ
  47. Biêu: nêu lên cho mọi người biết
  48. Ý câu: Vân Tiên bị xem là kẻ oán thù với nhà Thể Loan, thì Vân Tiên đã bị nhà Thể Loan hãm hại, tức là Vân Tiên trả xong nợ rồi
  49. Ca ca: anh. Chịu đi: ưng thuận đi
  50. Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới hỏi thời xưa
  51. Gót lân: chỉ con cháu có tài đức