Bước tới nội dung

Mạn thành (I)

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Mạn thành - 漫成
của Nguyễn Trãi

I - 其一

[sửa]
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

眼中浮世總浮雲
蝸角驚看日晉秦
天或喪斯知有命
邦如有道亦羞貧
陳平自信能為宰
杜甫誰憐已誤身
世事不知何日了
扁舟歸釣五湖春

Nhãn trung phù thế tổng phù vân[1] ;
Oa dốc kinh khan nhật Tấn Tần[2].
Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh ;
Bang như hữu đạo diệc tu bần.
Trần Bình tự tín năng vi tể[3] ;
Đỗ Phủ thùy lân dĩ ngộ thân[4].
Thế sự bất tri hà nhật liễu,
Biển chu qui điếu ngũ hồ[5] xuân.

Trong mắt cuộc phù thế thảy là mây nổi cả.
Sợ thấy hàng ngày Tấn Tần tranh nhau như chuyện sừng ốc sên.
Trời có bỏ mất tư văn thì biết là có mệnh ;
Nước mà có đạo thì cũng xấu hổ vì nghèo.
Trần Bình tự tin có thể làm tể tướng ;
Đỗ Phủ ai thương nổi thân đã lầm lẫn mà phải khổ.
Việc đời không biết ngày nào xong ;
Để một con thuyền nhỏ mà về câu xuân ở Ngũ hồ.

II - 其二

[sửa]
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

博山香燼午窗虛
懶性從來愛索居
家有琴書兒輩樂
門無車馬故人疏
齏鹽隨分安衡泌
湖海棲身憶釣魚
與世漸疏頭向白
東山日日賦歸輿

Bác sơn[6] hương tẫn ngọ song hư ;
Lạn tính tòng lai ái sách cư,
Gia hữu cầm thư nhi bối lạc ;
Môn vô xa mã cố nhân sơ.
Tê diêm tùy phận an hành bí[7] ;
Hồ hải thê thân ức điếu ngư[8].
Dữ thế tiệm sơ đầu hướng bạch ;
Đông sơn[9] nhật nhật phú qui dư !

Trong lò bác sơn hương cháy hết, cửa sổ phía nam bỏ ngỏ ;
Tính lười trước nay vẫn thích ở lẻ loi.
Nhà có đàn sách thì vui con cái ;
Cửa không có xe ngựa thì bạn bè xa.
Muối dưa tùy phận, yên phận ở nơi cửa nè nước rộng.
Hồ biển nương thân nhờ thú đi câu.
Dần sơ với đời, đầu đã đốm bạc ;
Ngày ngày ngâm nga cái lòng muốn về Đông-sơn chăng ?

   




Chú thích

  1. Phù vân: mây nổi
  2. Tấn Tần: hai nước đời Xuân Thu của Trung Quốc, thường đánh nhau luôn, ví như hai nước Man và Xúc ở hai sừng con ốc sên nói trong sách Trang Tử thiên « Tắc dương »
  3. Trần Bình khi nhỏ nhà nghèo, làm việc chia thịt việc làng các phụ lão đều khen, Bình nói: Như Bình được làm tể trong thiên hạ (tể tướng) thì cũng sẽ như việc chia thịt này. Sau theo Hán Cao Tổ, đến đời Huệ Đế thì làm Tả thừa tướng
  4. Đỗ Phủ nói « Nho quan đa ngộ thân », Đỗ Phủ đại tài mà khổ suốt đời
  5. Ngũ hồ: Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn báo thù diệt được nước Ngô thì bỏ Câu Tiễn không giúp nữa mà đi chơi Ngũ hồ (Ngũ hồ là Thái hồ ở tỉnh Giang Tô ở Trung Quốc)
  6. Bác sơn: Bác sơn lô là cái lò hương theo hình núi Bác sơn giữa biển, từng dưới chứa nước sôi để hơi hương bốc lên với hơi nước cho nhuận mát
  7. An hành bí: hai chữ « hành bí » là do câu thơ trong bài « Hành môn » trong Kinh Thi: « Hành môn chi hạ khả dĩ thê trì; bí chi dương dương khả dĩ lạc cơ », nghĩa là ở dưới cái cửa làm bằng cây gỗ ngang (ở chỗ túp lều) có thể nhởn nhơ, mặt nước mênh mông có thể đói mà vui
  8. Ức điếu ngư: là nhớ thú câu cá
  9. Đông sơn: Đông sơn là chỗ Tạ An là người có tiếng phong lưu ở đời Tấn từng ở sáu bảy năm để vui chơi trong khoảng núi rừng. Về Đông sơn tức là trở về với thú núi rừng