Bước tới nội dung

Nê-hê-mi/12

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nê-hê-mi của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 12

Cai số thầy tế-lễ và người Lê-vi

121 Đây là những thầy tế-lễ và người Lê-vi, theo Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-la-thi-ên, và Giê-sua, mà đi lên: Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, E-xơ-ra, 2 A-ma-ria, Ma-lúc, Ha-túc, 3 Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt, 4 Y-đô, Ghi-nê-thôi, A-bi-gia, 5 Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga, 6 Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia, 7 Sa-lu, A-móc, Hinh-kia, và Giê-đa-gia. Đó là quan-trưởng của những thầy tế-lễ và anh em của họ trong đời Giê-sua.

8 Những người Lê-vi là: Giê-sua, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bia, Giu-đa, và Mát-ta-nia, là người với anh em mình coi-sóc việc hát khen-ngợi. 9 Lại có Bác-bu-kia, U-ni, cùng các anh em mình; họ thay-đổi phiên nhau trong công-việc mình.

10 Giê-sua sanh Giô-gia-kim; Giô-gia-kim sanh Ê-li-a-síp; Ê-li-a-síp sanh Giô-gia-đa; 11 Giô-gia-đa sanh Giô-na-than, Giô-na-than sanh Gia-đua.

12 Nầy là trưởng-tộc của những thầy tế-lễ, trong đời Giô-gia-kim: về họ Sê-ra-gia, Mê-ra-gia; về họ Giê-rê-mi, Ha-na-nia; 13 về họ E-xơ-ra, Mê-su-lam; về họ A-ma-ria, Giô-ha-nan; 14 về họ Mê-lu-ki, Giô-na-than; 15 về họ Sê-ba-nia, Giô-sép; về họ Ha-rim, Át-na; về họ Mê-ra-giốt, Hên-cai; 16 về họ Y-đô, Xa-cha-ri; về họ Ghi-nê-thôn, Mê-su-lam; 17 về họ A-bi-gia, Xiếc-ri; về họ Min-gia-min và Mô-a-đia, Phinh-tai; 18 về họ Binh-ga, Sa-mua; về họ Sê-ma-gia, Giô-na-than; 19 về họ Giô-gia-ríp, Mát-tê-nai; về họ Giê-đa-gia, U-xi; 20 về họ Sa-lai, Ca-lai; về họ A-móc, Ê-be; 21 về họ Hinh-kia, Ha-sa-bia; về họ Giê-đa-gia, Nê-tha-nê-ên.

22 Về người Lê-vi, các trưởng-tộc của họ đã biên tên vào sổ trong đời của Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua; còn những thầy tế-lễ, thì biên tên vào sổ trong đời Đa-ri-út, nước Phe-rơ-sơ.

23 Các trưởng-tộc của người Lê-vi có ghi tên vào sách sử-ký cho đến đời Giô-ha-nan, con trai của Ê-li-a-síp. 24 Các trưởng-tộc của người Lê-vi: Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, và Giê-sua, con trai của Cát-mi-ên, và các anh em người đứng đối nhau, từng ban từng thứ, đặng ngợi-khen và cảm-tạ, tùy theo lịnh của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời.

25 Mát-ta-nia, Bác-bu-kia, Ô-ba-đia, Mê-su-lam, Tanh-môn và A-cúp, là kẻ canh-giữ cửa, giữ các kho bên cửa thành. 26 Các người nầy ở về đời Giô-gia-kim, con trai của Giê-sua, cháu Giô-xa-đác, về đời Nê-hê-mi, quan tổng-trấn, và về đời E-xơ-ra, làm thầy tế-lễ và văn-sĩ.

Khánh-thành các vách-thành Giê-ru-sa-lem

27 Khi khánh-thành các vách-thành Giê-ru-sa-lem, thì người ta sai gọi các người Lê-vi ở khắp mọi nơi, đặng đem chúng về Giê-ru-sa-lem, để dự lễ khánh-thành cách vui-vẻ, có tiếng khen-ngợi và ca-hát theo chập-chỏa, đờn-cầm, và đờn-sắt. 28 Các người ca-hát đều hiệp lại, từ đồng bằng xung-quanh Giê-ru-sa-lem, các làng người Nê-tô-pha-tít; 29 lại từ Bết-Ghinh-ganh, từ đồng bằng Ghê-ba và Ách-ma-vết; vì những người ca-hát đã xây cho mình các làng ở chung-quanh thành Giê-ru-sa-lem. 30 Những thầy tế-lễ và người Lê-vi dọn mình cho thánh-sạch, cũng dọn cho thánh-sạch dân-sự, các cửa và vách-thành.

31 Bấy giờ, tôi biểu các quan-trưởng Giu-đa lên trên vách-thành, rồi phân làm hai tốp lớn kéo nhau đi để cảm-tạ; một tốp đi về phía hữu trên vách-thành, tới cửa Phân. 32 Sau chúng có Hô-sa-gia, và phân nửa số các quan-trưởng Giu-đa, 33 cùng A-xa-ria, E-xơ-ra, Mê-su-lam, Giu-đa, Bên-gia-min, 34 Sê-ma-gia, Giê-rê-mi, 35 và mấy con trai của những thầy tế-lễ cầm kèn: Xa-cha-ri, con trai của Giô-na-than, cháu của Sê-ma-gia, chắt của Mát-ta-nia, chít của Mi-chê; Mi-chê là con trai của Xác-cua, cháu của A-sáp, 36 cùng các anh em người, là Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nê-ên, Giu-đa, và Ha-na-ni, cầm những nhạc-khí của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời; và E-xơ-ra, người văn-sĩ, đi ở đằng trước chúng. 37 Từ cửa Suối, ở ngay mặt, chúng đi thẳng lên các nấc thành Đa-vít, tại nơi đốc vách-thành ở trên đền Đa-vít, và đến cửa Nước về phía đông. 38 Còn tốp cảm-tạ thứ nhì đi trên vách-thành đối ngang lại với tốp thứ nhứt, còn tôi đi ở sau họ với phân nửa dân-sự, từ tháp các Lò cho đến vách rộng, 39 đi qua trên cửa Ép-ra-im, gần bên cửa Cũ, cửa Cá, tháp Ha-na-nê-ên, và tháp Mê-a, đến cửa Chiên. Chúng dừng lại tại cửa Ngục. 40 Đoạn, hai tốp cảm-tạ dừng lại trong đền Đức Chúa Trời, tôi và phân nửa quan-trưởng theo tôi cũng làm vậy, 41 và những thầy tế-lễ cầm kèn, là Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-gia, Min-gia-min, Mi-chê, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia; 42 lại có Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe. Những kẻ ca-hát tiếng lớn, có Dít-ra-hia dẫn-dắt. 43 Trong ngày đó, chúng dâng những của-lễ trọng-thể và vui-vẻ; vì Đức Chúa Trời đã khiến cho chúng vui-mừng khắp-khởi; các người đờn-bà và con trẻ cũng vui-mừng nữa; sự vui-mừng của thành Giê-ru-sa-lem vang ra rất xa.

44 Trong ngày đó, người ta lập kẻ coi-sóc các phòng kho-tàng về của-lễ dâng giơ lên, về của đầu mùa, về thuế một phần mười, đặng thâu vào nó, tùy theo đồng của các thành, phần của những thầy tế-lễ và người Lê-vi, mà luật-pháp đã chỉ định; vì Giu-đa vui-mừng nhơn những thầy tế-lễ và người Lê-vi đứng hầu-việc. 45 Chúng luôn với những kẻ ca-hát và kẻ giữ cửa đều giữ trách nhiệm của Đức Chúa Trời, và việc dọn mình thánh-sạch, tùy theo mạng-lịnh của Đa-vít và Sa-lô-môn, con trai người. 46 Vì ngày xưa, về đời Đa-vít và A-sáp, có những quan-trưởng coi-sóc những kẻ ca-hát, và có bài hát khen-ngợi cảm-tạ Đức Chúa Trời. 47 Trong đời Xô-rô-ba-bên và Nê-hê-mi, cả Y-sơ-ra-ên đều cấp phần cho kẻ ca-hát và người canh-giữ cửa, ngày nào cần dùng theo ngày nấy; cũng để riêng phần của người Lê-vi, và người Lê-vi để riêng phần của con-cháu A-rôn.