Bước tới nội dung

Ngô gia đệ cựu ca cơ

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Ngô gia đệ cựu ca cơ - 遇家弟舊歌姬
của Nguyễn Du

Gia đệ: Em, có thể là em cùng mẹ, mà cũng có thể là em khác mẹ. Đây có thể chỉ người em cùng mẹ là Nguyễn Úc được tập ấm là Hoàng Tín đại phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Úc chạy theo không kịp, về ngụ nơi quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm Tân Vị (1811), Gia Long nghe ông có tài khéo, xuống chiếu triệu vào kinh, bổ làm Thiêm Sự bộ Công, tước Hầu. Những miếu điện ở kinh thành đều do ông sáng chế kiểu thức.

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

繁華人物亂來非,
玄鶴歸來幾個知。
紅袖曾聞歌宛轉,
白頭相見哭流離。
覆盆已矣難收水,
斷藕傷哉未絕絲。
見說嫁人已三子,
可憐猶著去時衣。

Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc[1] quy lai kỷ cá tri.
Hồng tụ[2] tằng văn ca uyển chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.
Phúc bồn[3] dĩ hỉ nan thu thủy,
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y.

Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi chốn phồn hoa đã khác xưa.
Con chim hạc đen bay trở lại, nào mấy ai biết?
Ta từng nghe giọng ca uyển chuyển của nàng lúc xưa mặc áo hồng.
Nay đầu đã bạc, mới gặp lại nhau, nghe nàng than thở nỗi lưu ly.
Chậu nước đã đổ rồi, khó lòng vét lại.
Thương cho ngó sen đã đứt mà tơ vẫn còn vương.
Nghe nói nàng đã có chồng và đã có ba con.
Ái ngại thay nàng vẫn phải mặc cái áo xưa (vẫn làm ca cơ).

   




Chú thích

  1. Chim hạc đen: truyền rằng hạc vốn sắc trắng, tu nghìn năm thành sắc vàng, tu nghìn năm nữa ra sắc đen. Câu này ý nói, xa Thăng Long lâu này nay mới trở lại
  2. Tay áo hồng, chỉ áo đào hát thường mặc
  3. Chậu nước đổ. Tục có câu: "Phúc thủy nan thu" nghĩa là nước đổ rồi khó hốt lên được. Ý nói là người ca cơ đã xa em mình rồi không sao tụ hợp được nữa