Bước tới nội dung

Phú bần truyện diễn ca

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Phú bần truyện diễn ca  (1896) 
của Émile Souvestre, do Trương Minh Ký dịch

PHÚ BẦN TRUYỆN

DIỂN CA

RICHE ET PAUVRE

PAR

THẾ-TẢI, TRƯƠNG-MINH-KÝ
Officier d’Académie
Interprète au titre européen
AU SECRÉTARIAT GÉNÉRAL DU GOUVERNEMENT DE LA COCHINCHINE



2e édition.



IMPRIMERIE COMMERCIALE REY, CURIOL ET Cie
Rues Catinat et d’Ormay à Saigon.


1896


TOUS DROITS RÉSERVÉS

嘉定省
富貧傳演義 
西職通事世載張明記


PHÚ BẦN TRUYỆN

Phủ bần truyện thiệt tiếng tây,
diển ra quâc ngử cho bầy trẻ coi.
Xấu xa lánh, tốt học đòi,
nhờ gương người trươc đặng soi mình rày.
Dều nghi rủi, té ra may; cho hay muôn sự ở tay Thợ-trời.

I.

Có người phú quí trên đời,
Huỳnh-trâm (Wildstrom) tổng trấn ở nơi Tây-thành.
Lòng nhơn đạo, nết hiền lành,
xa xuôi mến đưc, gần quanh đẹp lòng. 10
Một ngày rảo bươc thơ phòng,
xem hai bưc tượng, xet đồng tài nhau.
Phut đâu nghe động cửa lầu,
giựt mình ngươt mặt day đầu ngó ra.
Thấy công tử bươc vào nhà,
tuổi xuân tươi tắng, mặt hoa vui mầng.
Hỏi rằng: « gặp hội long vân,
bảng rồng tên đứng đặng lần nầy chăng? —
Con là An-phap (Alfred) thưa rằng:
thi rồi kỳ nhứt, bảng đăng thứ nhì. 20
Chợt nhìn hai bức tượng ni; rỏ ràng thủy tú sơn kỳ cảnh tiên.
Khéo thay net vẻ thiên nhiên,
chẳng hay thợ đó họ tên là gì? —
Rằng: người thợ H. tài kỳ!
còn phần thợ Hoạch (Wald) thất thì thương thay!
Kiểu ra khéo, net vẻ hay; mà danh khó sánh khó tày thợ kia.
Nên còn đang nghỉ đang suy,
một đàng danh tượng, một thì tài nhân. 30
Hoạch đòi năm chục đồng vàng,
thà mua tượng H. bởi chàng có danh.
Hai trăm vàng ấy củng đành,
tuy bằng bốn thiệt, tài lành nên mua. —
Thưa rằng: Hoạch vẻ chẳng thua,
đám rừng như tạc, cảnh chùa giống in. »
Bèn xin mua lấy cho mình,
thấy đề tên Hoạch, động tình thương riêng.

Vì chưng Do (Georges) vốn bạn hiền,
là con thợ Hoạch, đậu trên các trò. 40
Thương con mua tượng ấy cho,
sau đây nói tiếp sự Do thể nào.

II.

Do nầy trí cả tài cao; dỏi theo đạo chánh, xen vào thánh môn.
Trời cho cha khéo con khôn,
trưởng hương dự thí bảng long đứng đầu.
Hai thân kẻ yếu người đau; làm cho hoa héo cỏ xàu xiêt bao!
Trong khi An-phap bươc vào,
thấy cha xem tượng miệng chào lòng vui. 50
Đây Do thấy mẹ ngậm ngùi; vào thăm cha ngủ lén lui ra ngoài.
Ấy nên mừng một tủi hai,
nhà xuân vừa dậy, hỏi ai tới nhà.
Do bèn chạy lại hun cha,
nghe hơi thở nặng, lụy hoà thấm bâu.
Hai thân đổ ngọc tuôn châu,
rằng: « mình đả khá chớ âu phiền lòng.
Người nhơn ngải, kẻ hiếu trong,
đất trời che chở, núi sông phò trì. 60
Tuổi xanh gặp hội khoa kỳ,
bảng đăng chư sỉ nghe thì hôm qua. —
Dám thưa phước đổ thủ khoa,
có tờ chủ khảo, trình cha tỏ rày. »
Nghe thôi nở mặt nở mày,
gặp hồi lan cuc đợi ngày bồng tang.
Giờ lâu Hoạch lại dỉ rằng:
« muốn con tấn sỉ mới bằng lòng cha.
Song nghèo khó thế đi xa; lấy chi ăn học mà ra kinh kỳ. » 70
Hảy còn ngồi nghỉ nằm suy,
nàng rằng: « đừng ngại việc chi có Trời.
Nầy! ai xui khiến lạ đời; sớm ra lại gặp một người giàu sang.
Thấy cầm bưc tượng đi ngang,
cho quân lại khiến đem đàng dinh coi.
Vâng lời theo got tới nơi,
nhà quan hỏi giá tượng tôi mấy vàng.
Vụt đòi dưt giá ngàn quan,
người bèn dạy để gat ngang song hồ. 80
Hỏi nhà ta ở nơi mô; mua chăng sao củng cho vô trả lời. »

Tiếng nàng nói mới vừa rồi,
kế đâu quân đến tạn nơi cửa nhà.
Do trông thấy dạng chạy ra,
hỏi quân: « có việc chi mà đến đây? —
Thưa rằng: tổng trấn quan thầy,
vàng trao năm chục, thơ thời một phong.
Dạy giao cả thảy cho ông,
xin khai thơ ấy hầu thông việc gì. » 90
Giao rồi lính trở ra đi; nghỉ may phươc gặp một vì nhà quan.
Hoạch rằng: « đó củng nhờ nàng,
không nhưng lở vận cùng đàng cậy trông. —
La-cơ-tich (Marguerite) nói nhờ chồng:
của chàng thiếp bán; có công khó gì! —
Hoạch rằng: tượng ấy ra chi,
bấy lâu bỏ đó, có thì như không. »
Gẩm ra việc bởi Hóa-công,
cả nhà cảm tạ hết lòng kính tin. 100
Thảo ngay Trời giúp dất gìn; tới đây kể sự tử sinh một hồi.

III.

Thôi! vai tuồng Hoạch mản rồi,
cach vài ba bửa tâc hơi mỏn dần.
Vợ con lẩn quẩn tay chân; khó đo đoạn thảm, dể cân nổi sầu!
Hoạch rằng: « đừng khoc chớ rầu,
sống thôi kế that, ai hầu khỏi chăng!
Noi nghỉa cả, giử đạo hằng,
khỏi sa địa ngục, ăt thăng thiên đường. 110
Khuyên con thảo kính thuận nhường,
chút thân từ mẩu, mến thương cho tròn.
Trí nhơn lể nghỉa tín còn; vua tôi chồng vợ cha con mối giềng.
Có vua thánh, có tôi hiền,
phu thê hảo hiệp, xuân huyên từ hòa.
Ơ đời chử dạ thiệt thà; hèn nghèo khó chịu, gian tà ma ưa.
Coi gương lớp trước đời xưa,
một vừa hai phải, sớm trưa rồi chiều. » 120
Cùng La-cơ-tich đôi điều:
« khuyên bền chí cả, chớ xiêu lòng phiền.
Cảm tình mến nghỉa vợ hiền,
nương nhau rày đả qua miền biển dâu.
Phần đây trước, phận đấy sau; củng là máu đổ ruột xàu lắm thay.

Nhìn nhau giọt vắn giọt dài,
giây lâu măt nhắm hồn bay vía dời.
Chơn dậm đất, miệng kêu trời,
Cảm lòng quân tử, thương người từ thân. 130
Lần hồi an trí mồ phần,
mản tang chế ấy mấy lần xuân qua.
Do lo đường trước nẻo xa; lại lo tới nổi huyên già xiết bao.
Than thân tủi phận làm sao; thứ sau đây kể thể nào mà nghe.

IV.

Suy đi gẩm lại mọi bề; héo don gan ruột, ủ ê mặt mày.
Nhà huyên xem vẻ lạ thay,
hỏi rằng: « phiền ấy sầu nầy ích chi? — 140
Thưa rằng: trộm nghỉ coi kỳ; Trời công sao lại cớ gì hiêp ta.
Người yêu quỉ, kẻ tinh ma,
bộn tay giàu có, hiếm nhà vinh vang.
Còn người lương thiện trăm đàng,
lâm vòng cực khổ, phải mang khó nghèo.
Ghe phen nghèo lại măc eo,
thần tài vừa vắng, quỉ theo cười liền.
Vì vàng bạc với giấy tiền,
sai lên đồng thiêp, khiến lên bóng chàng. 150
Dầu cho kém bạc kém vàng,
kẻ anh tài phải hiển vang trong đời! »
Mẹ nghe than vắn thở dài; gạt ngan phân giải dôi lời con nghe:
« Sao con chẳng biêt kiêng dè,
không vì trời đât, không e thánh thần.
Giàu do mạng, chẳng do nhân:
hiếm tay trí huệ phải bần hàng vi.
Chớ ghen ghét, chớ phân bì; có nên nên có, rồi thì thì thôi. 160
Tuồng đời, Trời đả săp rồi,
có khi sung sướng, có hồi lao đao.
Có người lo lắn tầm phào,
ngày no hơi mài, đêm thao thức hoài.
Hể không mạng, lại có tài,
xưa nay mấy kẻ trọn hai chử nầy! —
Rằng: tiên nghiêm khuât bấy chầy,
gia từ mình ốm voc gầy xot xa. —
Rằng: con chớ quản việc nhà,
lo bề ăn học, toan ra kinh kỳ. — 170

Thưa rằng: nhà chẳng giàu chi,
ấy nên mới nghỉ mới suy thể nào.
Thì đà ngày nọ đến trào,
tỏ trình chủ khảo, xin vào học sanh.
May nhờ gặp vận nên danh,
hiển trên vinh dưới cho đành lòng con.
Ai ngờ lương số chẳng còn,
trong tay không của tính khôn ra bề. »
Mẹ nghe bấy nổi nằn nì; rằng: « an dạ trẻ, gặp thì sẻ hay. 180
Làm sao chẳng kip thì chầy,
anh hùng ăt củng có ngày rạng danh.
Phong trần khôn lấp tài lành,
sang giàu chưa gặp đả dành có nơi.
Khuyên con an mạng thuận thời,
giải khuây khuyên khá dạo chơi sơn hà. »
Do vâng lời mẹ bươc ra,
xem phong cảnh, thấy ac tà, trở vô.
Quên buồn, hết giận, thôi lo; đây rồi có kẻ giúp trò khó ta. 190

V.

Khi Do trở gót về nhà; lòng vui chí toại bôn ba bươc vào.
Tỏ bày mọi nổi âm hao,
nhữ tuồng kẻ mới chiêm bao mà rằng:
« Khó khăn theo phận khó khăn,
ra kinh dạy trẻ kiếm ăn học hành.
Bửa ăn mắm muối củng đành.
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may.
Văn chương gỏi ghém thường ngày,
mùi ngon ngọt miệng, vui say mê lòng. » 200
Thốt thôi, ngó mẹ khoc ròng; vì lo mưa nắng ai phòng đở cho.
Rằng: « thân phận mẹ đừng lo,
lâu nay may mướn, ấm no vẹn toàn.
Nhà còn vài chục đồng vàng,
đem theo, chớ có đi đàng tay không. —
Rằng: con xin lấy vài đồng; e khi ấm lạnh để phòng đàng xa. —
Lạ thay! con luc vừa ra,
có ông quan lớn tới nhà ta đây. 210
Giây lâu rỏ mặt rỏ mày; phu nhơn người khiến đến may đồ hoài.
Người rằng: vâng lịnh vua sai,
đến đây đặng có thưởng tài tượng ta.

Vì vua ngó thấy hôm qua,
Huình-trâm tổng trấn đem mà kính dưng.
Nghe qua chẳng xiêt vui mừng.
bèn trình bằng câp tỏ chưng việc mình.
Nhà quan nghe rỏ sự tình,
ra đi một chặp thình lình thấy vô. 220
Lại đưa cho mẹ một tờ; rằng: vâng lịnh chỉ dạy cho con rồi. »
Do liền lấy giấy xem coi,
mổi năm tiền cấp hản hòi hai trăm.
Đội ơn thánh đế muôn năm,
cảm tình quan ấy chí lăm ơn đền.
Vội vàng lạy tạ Hoàng-thiên: rạng mai từ giả, Do liền ra đi.
Dọc đàng may rủi thế gì,
muốn tường nên phải tỏ bày ra đây. 230

VI.

Một mình làm tớ làm thầy,
vai mang một gói thàng ngay lên đàng.
Biết bao xuống biển lên ngàn,
xa vời mệt mỏi tiềm làng nghỉ ngơi.
Xóm nhà chưa kịp tới nơi.
giửa rừng thơ thẩn tối trời không hay.
Hiu hiu gió quạt lá lay!
màng trời chiếu đất như vầy khôn than.
Mới nằm còn nhửng mơ màn,
thoạt nghe vẳng vẳng ở đàng xa xa. 240
Một nghi thú dử rừng già,
hai nghi yêu quái gian tà chi đây.
Chẳng ngờ thấy tới một thầy,
tu hành ẩn giật rừng nầy bấy lâu.
Danh không tham, lợi chẳng cầu,
nâu sồng ăn mặc, cạo đầu xuất gia.
Ưa đờn suối, đẹp chim ca; gẩm kim suy cổ, vào ra một mình.
Sớm coi truyện, tối đọc kinh,
cầu trời khẩn đất: dân tình bình an. 250
Giận thàng nịnh, ghet đứa gian,
thương người hào kiệt, mến trang anh hùng.
Yêu con hiếu, chuộng tôi trung,
dốc trừ dạ hiểm lòng hung hại người.
Lại gần và hỏi và cười: « cớ sao nên nổi lạc nơi rừng nầy? —

Thưa thầy, vừa mới tới đây,
tối trời phải nghỉ, sáng ngày sẻ đi.
Số là dôc học xuống thi,
chờ khoa phải đến kinh kỳ học thêm. — 260
Rằng: về chùa tạm một đêm,
muối dưa qua bửa, anh em truyện trò. »
Trời hôm mây kéo chơn dò,
thuộc đàng thầy dăc trot giờ tới nơi.
Thầy rằng: « chiều dạo mat chơi,
quá chơn bươc tới thấy người phat nghi.
Xa xem khôn biêt là chi; đến gần cho hản việc gì tới đây. —
Do rằng: sự ấy lạ thay!
thiệt Trời xui khiến cho thầy cứu tôi. 270
Chẳng chi đói lạnh khốn rồi,
ngủ quên thú dử nó lôi không chừng. »
Thầy trò ý đẹp lòng ưng,
cơm rồi bà vú dọn bưng lên liền.
Bà nầy ăn sạch ở siêng; nuôi thầy thủơ nhỏ, nên quen ý rồi.
Vú, thầy, trò khó đều ngồi,
đói lòng ngon miệng, phải lời êm tai.
Thầy rằng: « vả đạo làm trai,
ơn nhà nợ nươc, cả hai vẹn toàn. — 280
Do rằng: phươc được giàu sang,
ơn thầy cứu giup, ngàn vàng chưa cân. —
Vú rằng: thầy có lòng nhân; làm ân chảng đợi đền ân bao giờ.
Đến mai chàng tới kinh đô,
đẻ ta gởi một phong thơ cho chàng.
Em ta già cả bần hàng,
chồng làm thợ tiện củng trang thiệt thà.
Hỏi thăm họ chỉ đên nhà,
vào thăm chồng vợ trao ra thơ nầy. » 290
Do mầng gặp nhửng người ngay,
rạng mai từ giả vú thầy bươc ra.
Giây lâu qua khỏi xóm nhà,
kinh thành thợ tiện ông bà đâu đây.
Hồi nầy nói chuyện vú thầy; đến hồi thứ bảy thợ tây ra tuồng.

VII.

Thợ nầy tên gọi Mạc-tông (Marton),
vốn con nhà khó, nên không phụ nghèo.

Vợ thì đặt rượu nuôi heo;
chồng làm thợ tiện cứ theo nghiệp nhà. 300
Chồng tử tế, vợ thiệt thà; ngày qua tháng lụn đả già chưa con.
Mạc-tông coi bộ củng buồn,
rằng: « mình vô hậu chẳng còn trông chi. —
Mụ rằng: lời nói củng kì,
lẻ đời sanh ký tử qui đủ rồi.
Tại ta không có nợ đời; nên không ai trả ai đòi vậy ru.
Khac chi nhửng kẻ đi tu,
đâu đòi đó trả khấu trừ xong xuôi. 310
Chừ ta kiếm chut con nuôi,
không sanh có dưởng, phòng ngồi cậy nương.
Ấy là thiên hạ thế thường,
mình yêu thương chúng, chúng thương yêu mình. »
Mạc-tông dám chẳng thuận tình,
tuổi già còn chống còn kình với ai!
Ngó ra thấy một người trai,
khôi ngô hình tượng đứng ngoài hỏi thăm.
Thiệt Do ta đó chẳng lầm,
miệng chào ông chủ, tay cầm phong thơ. 320
Rằng: « tôi còn dại còn khờ,
đến đây lạ chổ, xin nhờ cậy trông.
Có thơ bà vú một phong,
dặn tôi giao lại cho ông bà tường. »
Tai nghe trẻ thôt lòng thương,
dọn bày cơm nươc đải dường thể con.
Xem thơ bày ngọn rỏ nguồn,
chị khuyên giúp trẻ chảng còn chổ nghi.
Do rằng: « còn đợi kỳ thi,
đêm xin nương ngụ, ngày đi học hành. 330
Lương ban tiền phat đành rành,
hai trăm chuẩn câp tới thành tài thôi. »
Ông ưng bà chịu bao nuôi; trẻ ta yên chổ yên nơi yên lòng.
It lâu gặp kẻ con dòng,
cố tri An-phap củng đồng thương yêu.
Gặp nhau tình thiêt chuyện nhiều; coi hồi thứ tám rỏ điều gặp ni.

VIII.

Trường hương An-phap thứ nhì.
học thêm tới ở kinh kỳ bấy lâu. 340

Chẳng hay Do đến ở đâu,
bửa kia may gặp bên Cầu-mới (Pont-neuf) qua.
Nám tay dăc bạn về nhà; hỏi thăm phận mẹ thân cha thể nào.
Bộ Do mừng tủi xiết bao,
nửa vui nửa thảm biêt sao mới rằng:
« Xuân huyên vản cảnh chẳng an,
Một mang bịnh mât, một mang tật nguyền.
Được tin, vội trở về liền,
toan nuôi thân mẹ cho tuyền đạo con. 350
Đến xem thân thể thon von,
đà lâm bệnh bại đau dồn chơn tay.
Lo tìm thuốc, tính chạy thầy,
tiền thì xài hết, tật thì còn nguyên.
Khôn phân thảm, khó vẻ phiền; thời may kế tới kỳ tiền hai trăm.
Ấy là lương hướng một năm,
để nuôi phận mẹ hết làm được chi.
An thân an chốn rồi đi,
đến đây viêt mướn rảnh thì học thêm. 360
Nhiều khi thưc tới sáng đêm,
chí công mài săt nên kim có ngày.
Ơ nhà ông thợ gần đây,
muốn truyền nghề tiện xưa rày dậy tôi.
Nay đà học đặng nghề rồi,
khi không đồ chep, tiện chơi kiếm tiền.
Bây giờ ăn tiện ở yên; chờ kỳ thi hội may nên giúp đời. »
Nghe qua Do nói mấy lời,
tri âm An-phap than ôi! mà rằng: 370
« Anh sao lắm nổi bât bằng,
khó nghèo theo got, nhọc nhằn tấm thân.
Xin đừng độ phú lượng bần,
cùng nhau ăn học, chẳng cần lo chi.
Tới kỳ ta sẻ vào thi; phươc may đổ đặng hảy đi về nhà.
Xin giùm câp dưởng thân già,
hai thân tôi đả lánh xa cỏi trần. »
Thấy lòng An-phap ân cần,
Do rằng: « biết nghỉa biết ân thương lần. 380
Song lòng ông thợ có nhân,
dám đâu tham phú phụ bần vậy vay.
Trời che đất chở vần xây; hể cơn bỉ cực thì ngày thái lai.
Lại nhà củng đủ xây xài; tay làm có ít, hàm nhai chi nhiều!

Bần thường thới, phú thường kiêu,
ai theo phận nấy, khỏi chìu lòng ai. —
Đap rằng: nói vậy chẳng sai!
bạc trong thân thế, vàng ngoài nghinh ngan. 390
Trong tay sẳng bạc sẳng vàng,
quan ngay không phục, dân gian củng tùng. —
Do rằng: mang túi bạc đồng; mua chi dể đặng, an lòng khó mua. »
Người rằng hơn, kẻ nói thua,
hơn thua chưa biết, quyết đua tài lành.
Trường thi mở chốn kinh thành,
tới hồi thứ chín thí sanh tranh tài.

IX.

Trên trời rộng, dưới sông dài,
mặc dầu cá lội chim bay thỏa tình. 400
Dập diều sỉ tử ở kinh; hiếm tay trí huệ thông minh tot vời.
Tài vực nươc, đưc chăn người,
kẻ đua nghề vỏ, người thời việc văn.
Mở khoa kén kẻ tài năng,
chọn người hào kiệt, lựa trang anh hùng.
Do vào thi hội vừa xong; đậu đầu tấn sỉ, phỉ lòng ươc mơ.
Buồn riêng phận khổ thân cô,
bấy lâu nương ngụ, bây giờ hồi hương. 410
Tạ từ thợ tiện lên đường,
rằng: « lòng thương mến tợ dường mẹ cha.
Thi rồi tính trở lại nhà; lấy chi báo đáp ông bà ơn nuôi. —
Bà rằng: ta gỉa ơn ngươi,
khi buồn chuyện vản, lúc thời nghe thi.
Bây chừ kẻ ở người đi; nợ gì tính trả, ơn chi lo đền!
Khi đương chức, lúc có quyền,
đừng khinh dể khó, chớ quên khi nghèo. — 420
Ông rằng: như cột với kèo,
kiêu xa không dăc củng theo sang giàu. —
Do rằng: xem trươc xet sau; xa hoa kiêu ngạo lý đâu đặng bền.
Khi tâm tưc thị khi thiên;
trên trời dưới đất hai bên thánh thần.
Giàu lo lắn, khó nhọc nhằn; thôi thì an phận mản phần thì thôi. »
Giả từ trở got phản hồi,
minh minh đồng rộng, vơi vơi đàng dài. 430
Giày sành, đạp sỏi, xông gai; bóng theo hầu hạ ấy hai thầy trò.

Gẩm khen: thiệt khéo hóa cơ,
đầm đìa, sông biển, cồn gò, núi non.
Biển không cạn, núi chẳng mòn,
nắng lên hơi nươc, mây ồn xuống mưa.
Xây vần tám tiêt bốn mùa; mản kỳ xuân hạ, thì vừa thu đông.
Tứ dân tứ thú trong vòng,
sỉ nông canh độc, thương công ngư tiều. 440
Ngày đêm, sớm tối, trưa chiều;
còn người sanh tử, còn điều thị phi.
Đàng trời thôi mặc ý đi; kẻ thì đi thẳng, người thì đi quanh.
Miểng là giử đặng tánh lành,
phươc nhà ăt củng có dành ngày sau.
Và đi và gẩm hồi lâu; dặm trường xa chợ, phut đâu gần chùa.
Tới đây con bóng vừa trưa,
vào thăm thầy vú cùng thưa sự tình. 450
Thầy đang đọc sách tụng kinh; nghe Do gỏ cửa giựt mình ngó ra.
Hỏi rằng: « khi đà vào khoa,
đậu chăng nói lại cho ta hay cùng? —
Thưa rằng: đô hội anh hùng,
hội nguyên dự trúng, nhờ chưng ơn Trời. —
Thầy rằng: riêng tưởng nhằm rồi,
khoa nầy đoán một quyêt mười chẳng ngoa. —
Do rằng: nhớ thuở đàng xa,
ơn thầy cứu giúp tới già chẳng quên. 460
Sau may phươc được làm nên,
chí lăm nghỉa dấy, dốc đền ơn đây. »
Nói cùng bà vú lời nầy; « thơ bà gởi gắm ơn tày núi non.
Nghỉa thầy vú, đạo tôi con,
biêt bao chừ trả công ơn cho bà. —
Vú rằng: tuổi cả tac già; mang ơn thiên hạ biêt là bao nhiêu.
Nợ đời vay ít trả nhiều,
người đời nghỉ củng trớ trêu lắm người! 470
Gẩm kì cuộc, nghỉ tưc cười; nợ vay có chủ, trả lời cho ai.
Thôi thôi! chớ nói dông dài,
gặp thì giùm giúp, ai nài của cho. —
Do rằng: tâc dạ bo bo; bà quên đòi vốn, tôi lo trả lời. »
Đây rồi còn đợi chiếu trời,
về nhà nuôi mẹ chờ thời chưa an.
Tay không bạc, túi sạch vàng,
phải toan mần mướn lắm đàng thảm thay! 480

Khi làm thợ, luc làm thầy; kế đây luôn diển chuyện nầy làm sao.

X.

Do về tới cửa bươc vào; mẹ con chuyện vản thâp cao nổi nhà.
Mang ơn gần, chac ngải xa,
vú, thầy, thợ tiện ông bà đều thương.
Kể qua tới sự khoa trường; hội thi đả đậu, tiền lương mản kỳ.
Phần nhà củng chẳng có chi.
tính bề viêt mướn tùy thì phep sao. 490
Anh hùng lắm nổi lao đao,
xưa nay thường vậy, đời nào khỏi vay.
Tay tài trí, mặt thảo ngay; đât ghen ghét mải, trời đày đọa luôn.
Vò cho tròn, sửa cho vuông,
mới lìa ra khổ, mới buông ra vời.
Trời làm chi, mặc ý Trời,
làm gương thiên hạ, lựa người to gan.
Do đi cùng xóm khăp làng; quen thì lơ lản, lạ càng ngẩn ngơ. 500
Người đưa đải, kẻ phỉnh phờ,
ai dè thốn thiếu, ai ngờ ngặt vay!
Có nhà thợ tiện gần đây; đến xin làm thợ đở ngày gạo rau.
Hà-sơn (Gerson) tên ấy nhà giàu,
vài ba muơi thợ đứng đầu bao lo.
Vừa ra ngó thấy Do vô,
hỏi rằng: « đến mướn tiện đồ chi chăng? —
Do nghe hỏi tới thưa rằng:
xin cho làm thợ kiếm ăn qua ngày. — 510
Hà-sơn rằng: vậy củng may; đây ta còn thiếu một tay thợ nòi.
Nào! ra tiện thử ta coi,
nhằm tuồng chẳng phải con người thợ đâu. »
Đồ Do tiện khéo lại mau,
thảy đều trông thấy gặt đầu khen hay!
Tài nghề ai kẻ dám tày? thảm thay! tấn sỉ ra tay tiện đồ.
Ôi! thôi, miểng đặng ấm no,
con nuôi dưởng mẹ, mẹ bồ chì con. 520
Ngày qua, tháng lụn, năm mòn,
đi làm thợ tiện đả tròn mấy trăng.
Hà-sơn bửa nọ dỉ rằng:
« Đưc ông tự hiệu Hà-mân (Hermann) cho vời.
Đây liền theo lính đến nơi,
người bèn mướn tiện đồ chơi, nhiều tiền.

Ngươi sang lấy kiểu chớ phiền,
vẻ chừng nửa tháng tại đền đưc ông.
Phận đây vắng mặt khó lòng,
bỏ đi không kẻ coi công việc nhà. — 530
Do rằng: chẳng nại đường xa,
sợ tôi bất lực, e ra lổi nghì. —
Đap rằng: nếu đấy chẳng đi,
không ai thế đặng bỏ kỳ đồ đây.
Đến đền khởi sự mai nầy,
đưc ông nhơn đưc, người hay thương người.
Hoặc khi lấy kiểu vẻ coi,
khen thời ban thưởng, chê thời sửa cho. »
Vâng lời thợ cái dặn dò; an lòng chịu lảnh hêt lo sự gì. 540
Về nhà trình mẹ rồi đi,
ngày mai đến phủ đúng kì hẹn vô.
Dăc vào chổ có sẳng đồ; vẻ vời củng đặng trot giờ củng lâu.
Day lưng ngó ngoái đàng sau,
thấy thằng mươi tuổi ở đâu bước vào.
Mặt mày tôt, voc dạc cao; môi son đỏ chói, măt sao sáng ngời.
Lại gần thấy vẻ coi chơi,
hồi lâu lại tợ viêt, ngồi làm thinh. 550
Nửa giờ suy tính một mình,
viêt thôi ngừn lại thình lình thở than:
« Từ khi thầy xuống suối vàng,
gia nghiêm cho toán khó bàn cho ra.
Chăc sao khôn khỏi bị la,
cả tuần trọn vẹn tính đà không xuôi! —
Do rằng: xin miểng chấp tôi; để cho chỉ vẻ một hồi thử coi. »
Đó liền giup trẻ làm rồi,
xem bề diển nghỉa đầu đuôi tỏ tường. 560
Luy (Louis) rằng: « ấy củng dị thường,
ai đời thợ tiện tài dường cử nhơn.
Thầy ta căt nghỉa nào hơn,
xin chàng gắn giup ta luôn ít ngày. —
Do rằng: còn việc tại đây,
vẻ cho rồi củng phải hai ba tuần. »
Luy nghe nói vậy vui mầng; cảm ơn rồi lại dời chân ra liền.
Thưa cha tự sự phân miêng,
có người thợ tiện đó nên trí tài. 570
Hà-mân xem toán chẳng sai; khôn tin thợ tiện biêt bài ấy đâu.

Vậy còn muốn rỏ đuôi đầu,
nên sanh nhiều chuyện, hồi sau mới tường.

XI.

Ngày mai Do cứ lệ thường.
vào nơi phòng vẻ lo phương sự mình.
Trọng tài, Luy chẳng dám khinh,
chào mầng vui vẻ tỏ tình yêu đang.
Hỏi rằng: « giup nửa đặng chăng?
hôm qua hứa thiệt hay chàng nói chơi? — 580
Do rằng: vả đạo làm người; nói ra phải giử lấy lời dám sai! »
Đang khi sửa toán dọn bài,
Hà-mân củng có ở ngoài rình coi.
Thầy Do tài trí tot vời; bươc vào thôi mới bày lời hỏi han.
Rằng: « ta muốn hỏi thiệt chàng,
lẻ nào làm thợ hơn hàng cử nhơn?
Do nghe hỏi cội phăn nguồn,
muốn bày tâm sự sợ còn chê bai. 590
Vì chưng chưa hản là ai; ngở quan hầu hạ đền đài đây chăng.
Đưc ông thấy nín mới rằng:
« trong đời ai kẻ đặng bằng lòng luôn?
Người khoe giỏi, kẻ nói khôn,
chẳng qua gặp vận như buôn gặp chầu.
Con nhà nghèo, cháu nhà giàu,
Nếu sanh một mẹ như nhau lạ gì.
Khuyên chàng khá nói thiệt đi,
việc chi kiên sợ, chuyện gì nghi nan. » 600
Do bèn kể hêt mọi đàng; nghe thôi thảm thiêt, nghỉ càng xot xa.
Nêt đằm thắm, tánh thiệt thà,
được con kính mến, thêm cha yêu vì.
Tối hằng nghỉ, sáng vẩn suy,
chẳng hay ông ấy cớ gì hỏi tra.
Tới kỳ chủ nhựt về nhà; nổi gần thăm hỏi, đàng xa thưa trình.
Mẩu từ tử hiếu thâm tình!
vui lòng quên tưởng sự mình khó khăn. 610
Đang ngồi đang uống đang ăn,
trông ra thấy lính xông xang bươc vào.
Chẳng hay cớ sự làm sao; tin lành tin dử thể nào chưa minh.
Lính vừa bươc đến thưa trình:
« đưc ông tôi dạy đem tin người tường. »

Lấy thơ giao lại cho chàng; Do liền lảnh lấy lòng càng sanh nghi.
Ngó vào hớn hở mừng thay!
tỏ cùng từ mẩu đặng hay sự lòng. 620
Đưc ông chuộng kẻ hiếu trong,
biểu chàng dạy trẻ cho sòng ít năm.
Người đại độ, lại hảo tâm,
mổi năm bổng định ba trăm đồng vàng.
Mẹ con rày được thanh nhàn,
giàu sang một cửa, vinh vang mọi đàng.
Giùm bần tiện, giúp cơ hàng,
thương người ngay thẳng, mến trang thiệt thà.
Đến sau gặp bạn đàng xa; là An-phapI-ta-ly về. 630
Giặp nhau kể lể bộn bề,
thêm Do lên chưc, thiếu gì chuyện vui.
Vú, thầy, thợ tiện tới lui; hồi sau đây diển khuc đuôi thể nào.

XII.

Tánh Do thương thâp trượng cao,
đưc ông hậu đải ra vào anh em.
Còn Luy học tập tấn thêm,
trong yêu mến mải, ngoài niềm nở luôn.
Nghỉ hồi vui, nhớ thuở buồn,
Do đi đap ngải đền ơn vú, thầy. 640
Cùng hai thợ tiện nghỉa dày,
Chổ kia truyền dạy, nơi nầy mướn công.
Sao cho đẹp dạ bằng lòng,
rạng danh quân tử, rở dòng nhu gia.
Lần hồi tháng lụn ngày qua; xuân rồi tới hạ, thu đà sang đông.
Tới kỳ sinh nhựt đưc ông,
cổ ngoài bạn tac, tiệc trong họ hàng.
Đầy dân sự, dẩy quan quân,
kẻ đi mầng tuổi, người sang chuc lành. 650
Từ khi An-phap nên danh,
làm quan ở chốn kinh thành lâu nay.
Nghề văn giỏi, việc vỏ hay; I-ta-ly loạn, vua sai đi trừ.
Dẹp yên trở lại kinh sư,
phải đi chuc thọ củng như mọi lần.
Tại đền đủ mặt đình thần; vua em củng có lể mầng cho anh.
Do cùng An-phap bạn lành,
anh em mừng rở bày tình cùng nhau. 660

Do rằng: « xa cách bấy lâu,
phận đầu cay đắng, thân sau ngọt bùi.
Người đời biêt đủ thường vui,
rộng thời bươc tới, chật lui ra bờ.
Sang giàu ai chẳng ươc mơ,
kẻ nhờ con tạo, người chờ vận nên. —
Đap rằng: ấy thiệt đáng khen,
cố cùng, quân tử đặng bền thảo ngay.
Ngày xưa vậy, bửa nay vầy,
cho hay họa phươc do nơi lòng người. » 670
Đến chừng yến tiệc xong rồi,
Do mời An-phap về nơi nhà mình.
Biết bao kể lể tự tình; khi nhà vừa đến, luc kinh mới dời.
Hiếm người tới, bộn chổ chơi,
buổi nơi thầy thợ, khi thời nhà quan.
không kiêu ngạo, chẳng nghinh ngan,
củ càng kính chuộng, lâu càng yêu đương.
Trươc sao sau vậy giử thường,
hồi giàu không đổi, thuở sang chẳng dời. 680
Người sao sung sướng trọn đời,
vui chơi tới lớn, thảnh thơi về già.
Kẻ thì lại bị phong ba; mới ra thấy rủi, đến nhà chẳng may.
Gìn lòng thảo, giử đạo ngay,
vươn chưng quỉ báo, có tay thần phò.
Khi sáng chói, luc tối mò,
nên chìu số mạng, phải do vận thời.
Chừng cơn dông tố qua rồi,
dưới sông phẳng lặng, trên trời trong xanh. 690
Do sau đại phat công danh,
văn làm thừa tướng hiển vinh lâu dài.
Còn An-phap ấy cả tài; vỏ làm thừa tướng xứng vai tuồng mình.
Cả hai cầm mực công bình,
quan quân kính trọng, dân tình thương thay.
Vẹn nhơn ngải, trọn thảo ngay,
giàu nghèo thủ phận, rủi may chuyển vần.
Tục rằng: có phươc có phần,
hêt mười hai thứ phú bần truyện chung. 700


Chợ-lớn, giap thân niên cửu ngoạt sơ nhưt nhựt (19 octorbre 1884)

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.