Bước tới nội dung

Phan Trần/II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Phan Trần của không rõ
II
Phan Sinh và Kiều Liên phải xa cách nhau

Hay đâu tạo-hóa khôn lường,
Trần-công thoắt đã suối vàng, xa chơi.
Xót nàng mẹ góa con côi,
Phụng thờ hương khói chưa rồi ba năm.
Bỗng đâu binh lửa ầm-ầm,
Gió bay nhà bạc, cát lầm cửa thưa,
Lánh nàn, từng bước ngẩn-ngơ,
Mẹ già đầu bạc, con thơ má đào.
Ngày hỏi khách, tối trông sao,
160Dời chân bước thấp bước cao gập-ghềnh.
Thánh-tha bốn giọt lệ tình,
Biết đâu quen thuộc gởi mình được an.
Trải qua một quãng hàn-san,
Chênh-chênh nguyệt đã gác ngàn non mai.
Bỗng nghe trống giục, chiêng hồi,
Đêm khuya rừng rậm, rụng rời biết đâu ?
Pha-phôi dặm cúc, chòm lau,
Kẻ chân bãi nước, người đầu đỉnh non.
Con tìm mẹ, mẹ tìm con,
170Cỏ cây man-mác, nước non lạ-lùng !
Xót nàng thơ-yếu trẻ-trung,
Trời xanh nợ phụ má hồng chẳng bênh.
Một mình trong quãng rừng xanh,
Châu-chan má phấn, tằm oanh khúc vàng.
Tình cờ gặp ả họ Trương,
Ở Kim-lăng đến, hỏi nường thấp cao :
"Con người yểu-điệu thanh tao,
"Dáng sùi-sụt tủi, chìu ngao-ngán sầu !
"Tên gì, quê, họ nơi đâu ?
180"Gặp nhau xin ngỏ cho nhau biết cùng."
Tưởng rằng cùng bạn má hồng,
Đoái thương nên mới gạn-gùng phân minh.
Gạt châu mới kể sự tình,
Nỗi quê cách trở, nỗi mình truân-chiên.
Chẳng cho biết họ tường tên,
Tưởng cơn-cớ ấy, tủi nền-nếp xưa.
Trương ràng: "Thân gái hạt mưa,
"Biết đem mình ấy bây giờ cậy đâu ?
"Gần đây có một cảnh mầu,
190"Nữ-trinh, chùa ấy ở đầu Kim-lăng.
"Thênh-thênh cửa bụt đâu bằng,
"Xuất gia tín-nữ, tiểu-tăng cũng đầy.
"Chớ nề dưa muối, am mây,
Hãy nương náu, khỏi nạn này là hơn !"
Giắt tay nàng đến thiền-môn,
Bạch sư mới kể hàn-ôn gót đầu.
Khêu đèn hạnh, thắp hương mầu,
Chắp tay lạy phật, khấu đầu qui sư.
Sư rằng: "Này đạo Chân-như,
200Mênh-mông cửa bụt bi-từ hẹp ai.
"Đã rằng thụ giáo thiền-trai,
"Chớ nề dưa muối, chớ nài nem chanh.
"Tam-qui, ngũ-giới chứng minh,
"Xem câu nhân-quả, niệm kinh Di-đà,
"Sớm cúng quả, tối dâng hoa,
"Duyên xưa nỡ phụ, để già độ cho."
"Trên tứ bảo, dưới tam đồ."
"Lòng tin hai chữ nam-mô báo đền."
Diệu-thường mới đặt là tên,
210Hay cho đưa xuống phòng thiền nghỉ-ngơi.
Nàng vâng thụ giáo như-lai,
Nhỏ to mới giã ơn người họ Trương.
Thoắt thôi về chốn tĩnh-đường,
Buồn trông phong-cảnh tha-hương ngập-ngừng.
Kìa thì bụt, nọ thì tăng,
Chẳng hay từ-mẫu lạc chừng nơi nao ?
Than rằng: "Đội đức cù lao,
"Bể sâu mấy mấy trượng ? Trời cao mấy trùng ?
"Nếu sinh là kiếp đàn ông,
220"Thời tìm nước thẳm, non bồng quản chi ?
"Bởi sinh là phận nữ-nhi,
"Nghĩ thì càng tủi, nhớ thì luống thương.
"Từ-ô chim-chóc vật thường,
Còn mong kiếm chốn tìm đường trả ơn.
"Mưa sầu gió thảm từng cơn,
"Để ai chịu phận thờn-bơn một bề !
"Biết ai giãi tấm lòng quê ?
"Có chăng đợi đức từ-bi chuyển vần."
Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,
230Chạnh lòng xảy nhớ Châu, Trần nghĩa xưa.
Giãi-dầu kể mấy nắng mưa,
Thề phai, nguyền nhạt, bây giờ biết đâu ?
Quạt này ai để cho nhau,
Phong phong, mở mở giãi sầu làm khuây.
Chốn Lam-kiều cách nước mây,
Bùi-Hàng kia dễ biết đây nẻo nào ?
Non Thiên-thai mấy trượng cao,
Lưu-Lang chưa dễ tìm vào tới nơi.
Đã đành góc bể bên trời,
240Lân-la ngày bạc quá vời xuân-xanh.
Một mình những tủi duyên mình,
Nén hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn.
Phải khi sư-phụ bước lên,
Dè chừng mới hỏi rằng "duyên-cớ nào ?
"Ra chiều ủ liễu phai đào,
"Hạt châu lai-láng, quyển bào chưa phai.
"Hay là nhớ chốn Chương-đài,
"Xạ lan mùi cũ, hán hài thói xưa.
"Hay là nhớ nỗi mây mưa,
250"Ước ao nghĩa phượng, đợi chờ bạn loan ?
"Hay là tiếc thuở hồng-nhan,
"Sợ phai thức phấn, e tàn nhị hoa ?
"Hay là khổ-hạnh tương cà,
"Hư thân mâm ngọc đũa ngà bấy nay ?"
Diệu-Thường ren-rén thưa bày :
"Nỗi tôi, tôi bạch, lạy thầy, thầy thương.
"Loạn-ly từ cách gia-hương,
"Trông ơn thầy đã rộng đường bao-dong.
"Tưởng câu sắc sắc không không,
260"Dám đâu còn bận chút lòng gió trăng !
"Chỉn e từ-mẫu lạc chừng,
"Một mình chẳng biết suối rừng là đâu.
"Mẹ già bóng ngả cành dâu,
"Phòng khi sốt mặt, váng đầu cậy ai.
"Đã lo cầu khẩn bụt trời,
"Nào khoa cứu khổ, nào bài độ sinh.
"Càng trông càng vắng phong thanh,
"Lẽ nào hai chữ ân tình chẳng thương."
Thầy rằng: "Bĩ thái khôn lường,
270"Trăng thường tròn khuyết, nước thường đầy vơi!
"Nhịn sầu mà gượng làm tươi,
"Kẻo khi nguyệt mỉa, hoa cười chẳng hay.
"Hãy tu vẹn quả phúc này,
"Đừng long tiết ngọc, chớ lay cơ huyền.
"Kìa Điạ tạng, nọ Mục-Liên,
"Độ thân dẫu xuống cửu-tuyền cũng an.
"Lọ là người ở trần-gian,
"Đừng lo-lắng nữa, chớ phàn nàn chi.
"Ở đây nhờ đức Từ-bi,
280Mẹ con ắt cũng có khi lại gần."
Nàng nghe thầy dạy ân-cần,
Tát vơi bể Sở, khơi dần sông Nghiêu.
Muối dưa đắp-đổi ít nhiều,
Sớm khua mõ cá, tối khiêu chuông kình,
Vầng trăng bạc, ngọn đèn xanh,
Dâng hương ngũ-vị, tụng kinh tam-thừa
Nhân hẩy gió, đức nhuần mưa,
Vượn dâng quả cúng, chim đưa hoa mừng.
Đàn thông, phách suối vang lừng,
290Cá khe lắng kệ, chim rừng nghe kinh.
Mây phủ tán, liễu che mành,
Nước non Thiên-trúc, cung đình Bồng-lai.
Hoa thơm cỏ lạ đòi nơi,
Đã hay rằng cảnh có người mới yêu !
Vãng lai quan-khách dập-dìu,
Kẻ lên lễ phật, người vào bạch sư.
Nơi viết kệ, chốn đề thơ,
Mắt trần càng nhộn, lòng từ càng thanh.
Rửa không thế-tục thường tình,
300Một bình-tĩnh-thủy, một cành dương-chi.
Nhữ mong nương náu qua thì,
Biết đâu cơ-tạo, chắc gì nhân-duyên.