Bước tới nội dung

Quốc văn trích diễm/102

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm
102 — Lấy chồng cho đáng tấm chồng của Lê Quí Đôn (?)

102 — CÂU HỎI

Vấn: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen.

Truyện rằng: « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ. »

Kim khảo 1: « Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm, » tằng kiến ư thiên vạn nữ-nhi chi nghị; bất tri hà sở thủ ư anh đồ, nhi quyến-luyến nhược thị rư 2?

Thí vị trần chi, dĩ quan xuân-hoài tình-tự 3.

BÀI LÀM

Em nghe rằng: Sen ngó đào tơ, may gặp hội hôn-nhân chi phải lứa; chả chim cơm trắng, vẫn là mong giải-cấu chi tốt đôi; chọn mặt gửi vàng, dẫu ý ai cũng vậy.

Nay vâng lời sách hỏi mà lược bày ra.

Trộm nghĩ rằng: Rồng bay còn đợi đám mây, bắn bình-tước 4 phải đợi tay anh-hùng. Lấy chúng em chi má đỏ hồng-hồng, răng đen nhưng-nhức, chẳng những muốn cô tú dì nho chi dự, vẫn là mong chồng loan vợ phụng chi chung tình. Nếu mà cú đậu cành mai, thời công trang-điểm chẳng hoài lắm ru? Vậy nên sớm gửi tơ duyên, ai là chẳng ngọc đá, vàng thau chi lừa lọc.

Nay xét phương-ngôn chị em bạn gái nói chuyện rằng:

— « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ. »

Ý trộm nghĩ rằng: Ngọc còn đợi giá, vàng chẳng lộn thau. Cây gỗ lim chìm, quyết chẳng nỡ mang làm cọc giậu; hoa đào tươi tốt, hẳn không đem bán cho lái buôn. Cam đường với quả quít hôi, cũng cân nhắc ư ba đồng một, một đồng đôi chi giá.

Thử ngó coi: Ruộng sâu ao cả, chàng nông kia chi trọc-phú những khoe giầu; song Vương-Khải Thạch-Sùng 5 đã từng đấu phú, rồi cũng giương mắt ếch ư của đời người thế chi thu.

Nghiên ruộng bút cày, anh đồ nọ chi đa văn 6 không ngại khó; kìa Mãi-Thần, Mông-Chính 7 có lẽ tràng bần, rồi cũng bổng cánh hồng ư bĩ-cực thái-lai chi hội.

Nông nhì sĩ nhất, lẽ ấy đã rành.

Vả: Chân lấm tay bùn, chàng nông nãi vũ-phu chi cục-kịch, lấy yếm thắm chỉ đào chi tha-thướt, giá thể mà mang bầu xách lọ, sao cho cam hạt Ngọc để Ngâu vầy.

Miệng vàng dạ gấm, anh đồ là quân-tử chi dịu dàng, lấy môi son má phấn chi nhởn-nhơ, giá thể mà sửa túi nâng khăn, thì mới đáng cành ngô cho phụng đậu.

Vậy có thơ rằng:

Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng,
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.

Lại có thơ rằng:

Gươm trời chi để tay phàm tuốt,
Búa nguyệt sao cho đứa tục mài.

Vả: Tiếng-tăm con gái, nết-na học-trò, nên em nghĩ duyên em, em nghĩ tình em, lại tưởng đến anh đồ chi sự-nghiệp. Đèn xanh một ngọn, án tuyết ân-cần, quyển vàng mấy con, cửa huỳnh 8 gióng-giả.

Còn trong trần-lụy, anh đồ là vị vũ chi giao long, 9 may khoa thi mà kim bảng đề danh, tức hôm nọ chi hàn nho mà hôm nay đã Bảng-nhỡn Thám-hoa chi đài các, em phỏng có duyên ưa lá thắm, thời trước voi anh, sau võng thiếp, cũng thỏa đời ư võng lọng chi nghênh ngang.

Đương thủa hàn vi, anh đồ là tại sơn chi hổ báo 10, gặp vận thái mà thanh vân đắc lộ, tức bữa tê chi tiện-sĩ, mà bữa ni[1] đã Thượng-thư, Đô-đốc chi phong-lưu; em phỏng như phận đẹp chỉ hồng, thì anh quan cả, thiếp hầu bà, cũng sướng kiếp ư ngựa xe chi đủng-đỉnh!

Huống chi: Kinh sử lầu thông, anh đồ chi tài học, đã sẵn tay kinh tế; tuy có dài lưng tốn vải, bấy giờ đã đai vàng áo gấm chi bảnh-bao.

Tài năng rất mực, anh đồ chi duyên-phận, gặp được lúc long vân; tuy có ăn no lại nằm, bấy giờ đã cơm chúa võng đào chi chễnh-chện.

Gương trời vằng-vặc, sáng soi nhà vàng gác tía chi linh-lung;

Lộc nước miên-miên, súc tích gấm cuốn vàng cân chi ban cấp.

Như thế thì: Chồng quan sang, vợ hầu đẹp, ai chẳng khen nhất thế chi thần tiên; danh phận cả, bổng lộc nhiều, thế mới thỏa tam sinh chi hương hỏa. Khởi vô sở thủ ư anh đồ tai?

Vậy nên: Yếm trắng nước hồ, vã đi vã lại 11, chỉ mong anh nho-sĩ chi yêu đương. Miệng ong lưỡi én, uốn ngược uốn xuôi, cũng mặc giọng thế-gian chi mai-mỉa.

Em nay: Tuổi mới trăng tròn, tiết vừa hoa nở; vâng lời sách hỏi, giãi hết niềm đơn. Em cẩn thưa.

Lê-quí-Đôn (?)

CHÚ THÍCH. — 1. Nghĩa là: Nay xét. — 2. Nghĩa là từng thấy muôn nghìn con gái chê anh học-trò như vậy; không biết chuộng anh đồ vì nỗi gì mà quyến-luyến như thế rư? — 3. Nghĩa là: thử bày tỏ ra để xem tình ý lòng xuân. — 4. Bắn bình-tước. Theo tích ngươi Đậu-Nghị vẽ một con tước (chim sẻ) vào cánh bình phong và bảo rằng: Hễ ai bắn trúng mắt con chim sẻ này thì ta gả con gái cho. Đây ý nói bóng là chọn người mà lấy. — 5. Là hai người giầu có tiếng về đời Tấn, thi nhau sự xa-xỉ. — 6. Theo chữ đa văn vi phú (học được nhiều chữ là giầu). — 7. Chu-mãi-Thần người đời Hán, nhà nghèo phải vừa đi kiếm củi vừa học; Lã-mông-Chính người Tống, nhà nghèo chỉ ăn cháo, sau đỗ đến trạng-nguyên làm tể-tướng. — 8. Cửa huỳnh là cửa sổ có bóng đom-đóm. Theo tích Trác-Giận nhà nghèo phải nhờ ánh sáng đom-đóm để xem sách; chỉ nơi buồng học. — 9. Là con rồng gặp mưa: ý nói người tài giỏi chưa gặp thời. — 10. Là con hổ con báo còn ở núi: ý nói lúc còn hàn vi. — 11. Theo câu ca-dao: yếm trắng mà vã nước hồ, vã đi vã lại anh đồ yêu đương.

   




Chú thích

  1. Tiếng Trung-kỳ: tê=kia; ni=nay.