Quốc văn trích diễm/132

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

NGUYỄN-KHẮC-HIẾU 阮 克 孝

132 — ĐÁNH BẠC

Trong đời người sáu, bảy mươi năm, bao nhiêu cảnh thuận, bao nhiêu cảnh nghịch, bao nhiêu cái sướng, bao nhiêu cái buồn, bao nhiêu cái cười, bao nhiêu cái khóc; nhưng ngồi mà nghĩ, chỉ như canh bạc chơi một đêm.

Ngồi vào bàn bạc mà chơi, ai không muốn được. Nhưng sao cho được chắc mà không thua. Thua rồi lại được, được rồi lại thua, đỏ đỏ đen đen, lên voi xuống chó. Trong năm canh hì-hục, được hằng vui, thua dễ bẳn, thường tình ai cũng như ai. Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất đến lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được.

Người ta ở trong đời, khi nổi khi chìm, lúc may lúc rủi, không rồi lại có, đầy rồi lại vơi, lên lên, xuống xuống, như cây thụt máy tầu. Tiền chôn bạc chứa chưa là giầu; nhà gianh vách đất chưa là nghèo; võng, lọng, ngựa, xe chưa là vinh; xiềng, xích, gông, cùm chưa là nhục. Những cái đó chỉ như một ván tổ-tôm; một cái búng-quay, một tiếng sóc-đĩa, làm cho ta đương mừng hóa lo, đương buồn hóa sướng, say mê chìm đắm, khóc hão, thương hoài. Cuộc đỏ đen còn ở lại với đời, thời ấm chè tàu, điếu thuốc lá[1], chén rượu cúc, bát cháo gà, không không thèm đòi, có cũng ăn chơi; trăm năm giũ áo chốn trần-ai, còn gì mới là được.

Ông Khổng-tử khi trước, lúc đi câu, lúc đi bắn, lúc làm quan nhỏ, lúc làm quan to, lúc đi chơi lang-thang, lúc ngồi nhà dạy học: tan cuộc 72 năm, còn được lại hai chữ thánh-sư. Ông Nã-phá-Luân (Napoléon) lúc làm quan, lúc làm vua, lúc làm tướng, lúc trong tay 80 vạn quân lính, gầm hét châu Âu, lúc một mình giam lỏng chốn bãi bể; tan cuộc 52 năm, còn lại được một tiếng anh-hùng.

Cũng có kẻ không to mà được bé, không nhiều mà được ít thời như ông Trương-Tuần, ông Hứa-Viễn, chữ song-trung 1, ông Mẫn-Tử chữ hiếu, 2 ông Quí-Bố chữ hoàng-kim-nặc, 3 ông Tiếp-Dư một chữ cuồng 4.

Còn như Vương-Khải, Thạch-Sùng 5, Lý-Cầm, Lý-Tiến 6, bạc năm canh tha hồ mở bát, vỗ túi về không. Át-Trần, Mai-Kiện 7, Tần-Cối 8, Trương hoằng-Phạm 9, không những về không, để thêm tiếng cờ gian bạc lận. Nay cứ lấy lẽ thường mà nói, thời con người ta đã đem thân chơi cuộc đời, cũng nên liệu tính làm sao, lúc đứng dậy kiếm đôi ba chút. Có lẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục-phở?

Này ai ơi! Thử trèo bức tường đổ, trông quãng đồng xa, mồ con mả lớn, chỗ năm chỗ ba, chẳng quan thời dân, chẳng trẻ thời già, trước cũng người cả, bây giờ đã ma! Nào tiền nào của, nào cửa nào nhà, nào con nào vợ, nào lợn nào gà, nào câu đối đỏ, nào mành mành hoa, nào đâu đâu cả? mà chỉ thấy sương mù nắng rãi với mưa sa! Cuộc nhân-thế từ xưa mãi thế, làng chơi ta phải biết, trăm năm khôn dại dễ du mà?!

CHÚ THÍCH. — 1. Hai ông quan nhà Đường đều tử tiết ở một thành Tuy-dương. Sau đền thờ gọi là Song-trung miếu. — 2. Ông Mẫn-tử tên là Tổn, học-trò đức thánh Khổng, có tiếng khen là hiếu. Sự thực có tường ở quyển Nhị-thập-tứ-hiếu đã có dịch ra quốc-âm. — 3. Ông Quý-Bố, người nước Sở, có tín nghĩa, người trong nước Sở có câu ngạn-ngôn rằng: « Được vàng trăm cân, không bằng được một lời ừ của Quý-Bố » — 4. Ông Tiếp-Dư người Sở, cùng thời với đức Khổng-tử đi gặp xe đức Khổng ở đường có hát câu con chim phụng để ngụ-ý chê ngài không biết lánh đời là phải. Trong Luận-ngữ chép là Sở-Cuồng. — 5. Hai người là quan đời nhà Tấn, đều giầu nhất đời, thi nhau sự xa-xỉ. — 6. Nước ta đời thuộc Hán, hai người được sang làm quan Tàu. — 7. Đời Trần, giặc Nguyên sang, Trần ích-Tắc và Trần-Kiện đều là họ tôn-thất mà theo hàng giặc. Sau lúc đã thái-bình, truy luận các tội-danh hàng giặc, tước bỏ thuộc tịch của hai người, chỉ gọi là Át-Trần Mai-Kiện. — 8. Đời Tống bị giặc Kim sâm chiếm mất hơn một nửa nước, nhờ danh-tướng là Nhạc-Phi đánh lại đã gần khôi phục được. Tần-Cối bị bắt ở Kim về, làm tướng, thông-hòa với Kim mà giết mất Nhạc-Phi và xui vua Tống tự nhún mình xưng là bầy-tôi với Kim để cầu hòa, làm cho Tống từ đấy càng suy hèn đến mất. Vì thế đền thờ ông Nhạc-Phi có một cái tượng Tần-Cối đội thớt đứng trước sân, ai vào lễ đền thời trước cầm con dao băm vào đó một cái. — 9. Trương hoằng-Phạm cũng là quan của Tống, sau hàng Nguyên, theo quân Nguyên, về đánh Tống, đuổi vua Tống, đến đảo Nhai-sơn, vua Tống trẫm mình xuống biển chết, Hoằng-Phạm nhân khắc luôn tên mình vào bia đá để tự nhận công đánh mất được nhà Tống ở đấy. Người sau đi qua chỗ Nhai-sơn, có nhiều thơ sầu cảm chửi riếc.

(Lời chú-thích của tác-giả)

CÂU HỎI. — I. Ý tưởng. — 1. Tác-giả ví cuộc đời như cái gì? So sánh thế có khéo không?

2. Trong đời người sự được thua là thế nào? Tác-giả lấy những tỉ-dụ gì để chứng giải sự được thua ấy?

3. Theo ý tưởng bài này thì trong đời người điều gì là quan-trọng nhất?

II LờivặnLên voi xuống chó: nghĩa. — Bẳn: nghĩa. — Trăm năm giũ áo chốn trần ai: ý nói gì? — Nói qua công việc ông Khổng-tử và ông Nã-phá-Luân. — Tiếng cờ gian bạc lận là thế nào? Tại sao tác-giả lại bảo những người ấy mang tiếng ấy? — Nhục-phở: gốc và nghĩa. — Làng chơi: nghĩa.

2. Bài văn này thuộc về thể gì? — Cách đặt câu dùng chữ có điêu-luyện không?

   




Chú thích

  1. Thuốc tây.