Quốc văn trích diễm/70

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm
70. — Cuộc đời khổ sở của Ôn Như Hầu

CUỘC ĐỜI KHỔ SỞ

Nghĩ thân phù-thế mà đau,
Bọt trong bể[1] khổ, bèo đầu bến mê.
Mùi tục-vị, lưỡi tê tân khổ,
Đường thế-đồ, gót rỗ kỳ-khu.
Sóng cồn cửa bể nhấp-nhô,
Chiếc thuyền[2] bào-ảnh thấp-tho mặt ghềnh 1.
Trẻ tạo-hóa đành-hanh quá ngán,
Dắt díu nhau lên cạn mà chơi!
Lò cừ nung nấu sự đời 2,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương 3.
Đền vũ-tạ nhện chăng cửa mốc,
Thú ca-lâu dế khóc canh dài.
Đất bằng bỗng rắc chông gai,
Ai đem nhân-ảnh, nhuộm mùi tà-dương 4?
Mùi phú-quí dử làng xa-mã,
Bả vinh-hoa lừa gã công-khanh.
Giấc Nam-kha 5 khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!
Sân đào lý mây lồng man-mác,
Nền đỉnh-chung nguyệt gác mơ-màng.
Cánh buồm bể hoạn 6 mênh mang,
Cái phong-ba khéo cợt phường lợi-danh!
Quyền họa-phúc, trời tranh mất cả,
Món tiện-nghi, chẳng trả phần ai!
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ-mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Hình mộc thạch, vàng kim ố cổ 7,
Sắc cầm ngư, lệ (ố) vũ e phong 8.
Tiêu-điều nhân sự đã xong,
Sơn-hà cũng ảo (hoản), côn-trùng cũng hư!
Cầu thệ-thủy nằm trơ cổ độ,
Quán thu-phong đứng rũ tà huy 9!

Phong-trần đến cả sơn khê,
Tang-thương đến cả hoa kia cỏ này!
Tuồng ảo (hoản) hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù-sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh dì!
Mùi tục-lụy dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần-duyên!
Cái gương nhân sự chiền-chiền,
Liệu thân này với cơ-thuyền 10 phải nao!
Ngày mượn thú tiêu-dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong!
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế-sự mà mong nhân-tình!
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ 11 làm duyên.
Thoát trần một gót thiên-nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

CHÚ THÍCH. — 1. Bào-ảnh: cái bọt, cái bóng, ví với đời người nhỏ mọn mà hư không; chiếc thuyền bào-ảnh là nói thân-thế người ta. Câu này ý nói cõi đời nhiều nỗi hiểm ngoèo, khác nào như sóng cồn cửa bể, mà thân con người ta lênh đênh trôi nổi trong đó, khác nào như chiếc thuyền thấp-tho ở mặt ghềnh. — 2. Lò cừ: cái lò lửa lớn. Đây ý nói trời đất xoay xỏa sự đời như cái lò lửa lớn nung nấu. — 3. Vân cẩu: mây, chó; đương mây trắng mà biến ra hình chó xanh, biến đổi không thường. Tang thương: dâu, bể; đương bể xanh mà hóa ra nương dâu, cũng là cuộc biến đổi không thường. Đây ý nói con người ta sống chết vinh nhục không thường như nét vẽ trong bức tranh thay hình đổi giạng luôn. — 4. Nhân ảnh: bóng người; tà-dương: ánh sáng mặt trời về chiều. Đây ý nói bắt con người đương trai trẻ khỏe mạnh mà không mấy chốc trở nên ốm yếu già nua. — 5. Xem câu chú-thích (1) về bài thơ Tát nước ở trang 25. — 6. Hoạn: là quan. Làm quan lúc thăng lúc giáng, lúc vinh, lúc nhục, như chìm nổi trong bể khơi, nên gọi là bể hoạn. 7. Mộc thạch: cây đá; kim cổ: đời nay đời xưa. Đây nói qua đời xưa đến đời nay biết bao là cây vàng đá ố. — Cầm ngư: chim cá; vũ, phong: mưa, gió. — Đây nói chim cá cũng có lúc phải mưa gió làm cực khổ. — 9. Thệ thủy: nước chảy; cổ-độ: bến xưa; thu phong: gió thu; tà-huy: bóng chiều. Đây nói cái cầu nằm trơ bên bến nước chỉ có nước chảy dưới cầu, cái quán đứng trơ giữa bóng chiều chỉ có gió thu trong quán, chứ chẳng còn có gì nữa. — 10. Cảnh chùa, tu-hành đạo phật. — 11. Chữ trong kinh phật: phép phật tốt đẹp gọi là hoa đàm; phép phật sáng suốt gọi là đuốc tuệ. Đây là nói cảnh chùa.

   




Chú thích

  1. Biển. —
  2. Ghe.