Bước tới nội dung

Quốc văn trích diễm/71

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm
71. — Cảnh khổ ở trong cung của Ôn Như Hầu

CẢNH KHỔ Ở TRONG CUNG

Ai ngờ bỗng một năm một nhạt[1],
Nguồn-cơn kia không tát mà vơi!
Suy đi đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị-vong 1!
Đuốc vương-giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khóe âm-nhai!
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần 2.
Vốn đã biết cái thân câu trõ 3,
Cá no mồi cũng khó dử lên!
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào 4?
Song đã cậy má đào chon-chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người.
Nào hay con Tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại giâm 5!
Trong cung-quế, âm-thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh, trông ngóng lần lần,
Khoảnh làm chi mấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhị dần lại thôi!
Lầu đãi-nguyệt, đứng ngồi dạ-vũ,
Gác thừa-lương, thức ngủ thu-phong 6,
Phòng tiêu 7 lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng 8 xé đôi.
Chiều ủ-dột, giấc mai trưa sớm,
Vẻ bâng-khuâng, hồn bướm vẩn-vơ.

Thâm-khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương treo 9.
Ngấn phượng-liễn 10 chòm rêu lỗ-chỗ,
Dấu dương-xa 11 đám cỏ quanh-co;
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng 12,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay, giấc cô-miên 13;
Mùi hương tịch-mịch, bóng đèn thâm-u!
Tranh biếng ngắm trong đồ tố-nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm-lâu 14.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa.
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc-khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn-ngơ!
Hoa này bướm nỡ thờ-ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng!
Đêm năm canh, lần nương vách quế,
Cái buồn này ai để giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu-cầu 15!
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?
Tay nguyệt-lão, chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở-dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu-phòng mà ra.

CHÚ THÍCH. — 1. Người góa (quá) chồng. — 2. Nói bóng là các cung-phi nhiều quá, vua chỉ chấm lấy độ một vài người mà thôi. — Câu trõ là câu ghé vào chỗ người khác đang câu, khó lòng bắt được cá. — 4. Cây cù mộc là cây cao. Một cây mà ba nghìn chim én muốn đỗ, ví như một ông vua mà có ba nghìn cung-tần. Hai câu này ý nói thân phận lẽ mọn, khó tranh được lòng thương yêu của vua. — 5. Nói bóng là vừa mới được hầu-hạ vua thì đã bị xa cách ngay. — 6. Lầu đãi-nguyệt: lầu ngồi đợi trăng; dạ vũ: mưa đêm. Gác thừa-lương: gác ngồi hứng mát; thu phong: gió mùa thu. Đây ý nói những nơi mình được hầu-hạ vua trước bây giờ chỉ một mình ngồi đứng với mưa đêm, thức ngủ với gió thu. — 7. Phòng chát bằng hồ-tiêu cho ấm, phòng của các cung-phi nhà vua ở. — 8. Cái dải đồng tâm. — 9. Cửa châu: là cửa treo ngọc châu. Rèm ngà là rèm bện trục bằng ngà. — 10. Là xe làm hình chim phượng, xe vua ngự. — 11. Là xe dê: xưa vua Vũ-đế nhà Tấn bên Tàu thường đi cái xe dê kéo ở trong cung. — 12. Xưa ông Tô-Vũ bị rợ Hồ cầm giữ, ông buộc thư vào chân chim nhạn để nhạn đem tin về triều Hán cho, nên thường nói gửi thư là đưa tin nhạn. — 13. Cô-miên 孤 眠 là ngủ một mình. — 14. Nghiêm lâu là cái lầu nghiêm mật, chỗ vua ở. — 15. Lưu-cầu là tên một thanh gươm.

   




Chú thích

  1. Lạt.