Tạp thi

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tạp thi
của Nguyễn Du

Chưa tìm được bản chữ Hán

I[sửa]

Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
Xuân lan thu cúc thành hư sự,
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ,
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên.
Thôn cư bất yếm tần cô tửu,
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.

Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi đát,
Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt.
Xuân lan thu cúc đã thành chuyện hão,
Đông lạnh hè nồng đoạt thiếu niên.
Dắt chó đi săn, mãi vui dưới chân núi Hồng Lĩnh.
Trong mây trắng, nằm bệnh bên sông Giang Quế.
Ở thôn quê, thích nhất được mua rượu uống luôn,
Trong túi hãy còn ba mươi đồng tiền đây.

II[sửa]

Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

Hồng Sơn nhất sắc lâm bình cừ,
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư
Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.

Núi Hồng một màu soi xuống làn nước phẳng.
Kẻ hàn sĩ có thể ở được nơi thanh tú tịch mịch này.
Mây trắng từ nghìn dặm bay đến bên giường,
Trăng sáng soi qua cửa sổ, chiếu vào túi đàn cặp sách.
Buổi loạn lạc, cười khóc cũng phải theo đời.
Thân già yếu nên im lặng giữ mình,
Chuyện trước mắt đổi thay như hoa nở lá rụng.
Quanh năm, cõi lòng vẫn thản nhiên như không.