Tập diễn thuyết của Phan Bội Châu/3
Làng ta thủa xưa vẫn không có hội giảng báo, từ bây giờ mới có, thiệt là một cái việc đã vài ngàn năm nay, chưa từng thấy, mà bây giờ được thấy lần thứ nhất; thực là một việc to lớn đủ tỏ ra cái lòng nhiệt thành công ích của cha ông chú bác ta, mà thiệt là vì thương món con em ta sắp đặt cái việc sung sướng ngày sau, không biết bao mà lường được, bởi vì vậy cho nên vừa ngày nay là ngày đầu mới khai hội. Chúng tôi xin dâng một vài lời như sau nầy:
1 — Là cái lý-do vì làm sao mà phải khai thiết ra cát hội giãng báo nầy?
2 — Là những việc lợi ích về người ta xem báo rồi sở đắc như thế nào?
Trước kể đều thứ nhất: cứ cái công lệ loài người ta dần dần phải tấn hóa lên, đầu tiên phải lấy cạnh-tranh làm tạo nhân, mà đến lúc kết quả thời tất ai nấy: ưu thì thắng; liệt thì bại. Về phần ưu đã thắng, nhân lúc thắng càng thêm biết cái sở-dĩ ưu; phần liệt đã bại nhân lúc bại càng biết cái sở-dĩ liệt, đã biết cái sự liệt vì ở chốn nào thời phải gấp lo mà cải-lương đi. Hay lo cải-lương thì ngày nay tuy là liệt mà ngày khác chưa chắc không lên tới ưu chẳng lo cải-lương thời những sự liệt bại vẫn là bánh xe đã đổ rồi mà thực là một cái tạo-nhân cho chủng-vong tộc-diệt về ngày sau.
Người ta thử dòm cái hiện tượng gần đây năm mươi năm (50) nhận lại, mà biết cái công-lệ của thiên nhiên bày đặt ra đã rành rành không đường nào tránh được. Vì giao thông mở rộng, nên nỗi sự cạnh-tranh về đường thương giới rất là hung. Vì cơ xảo trăm đường nên sự cạnh-tranh về công giới rất là mạnh, vì miệng ăn một ngày một thêm nhiều, giá gạo một ngày một thêm đắt, nên cạnh-tranh về đường nông giới thiệt là nóng nảy.
Biết bao nhiêu là cạnh-tranh ở trên vật chất, khiến cho người nước ta như hình chịu chết.
Theo như cái tình trạng sinh hoặc người ta lúc bây giờ chắc là vì liệt mà đến bại, vì bại mà đến tử tuyệt cái việc ấy đã rõ ràng ở trước mắt rồi, người ta nếu chẳng kíp lo cải-lương ở lúc bây giờ; thời nòi giống mình e cũng đã gần ngày tuyệt diệt. Nghĩ đến nông nổi thế gai gốc biết là dường nào.
Cải-lương thay! Cải-lương thay!!
Lúc bây giờ thiệt là không còn ngày tháng mà chờ đợi nữa. Dẫu sương mới ở dưới bàn chưn mà biết sự đống giá dầy đã sắp sữa đến; bóng mưa còn ở bên cạnh núi, trước phải đem cánh cửa củ mau chằng chịt đi. Huống hồ giá đã ngập gốc mưa đã lấm đầu, thời việc tử-trung-cầu-sinh không gấp ở lúc bây giờ còn mong chờ gì nữa? Chúng ta nghĩ một phương pháp hay cho ngày nay, không chi là bằng cải cách cho hết phong tục hủ, vun trồng cho nên cơ-nghiệp mới, khiến cho dân ta biết làm sao mà hợp quần được, thời mới có thể lo việc cường, khiến cho dân ta biết thế nào mà hưng lợi được, thời có thể bàn việc phú. Nói tóm lại thời cốt ở nơi « hậu-dân-sinh », nhưng mà muốn « hậu dân-sinh » thời tất trước phải cần khai-dân-trí. Cái phương pháp khai-dân-trí tuy là điều mục rất nhiều nhưng mà muốn nhà nào nhà nấy hiểu, cửa nào cửa nấy thông để đem cái trí thức mới, cái tư tưởng mới tuôn đổ vào trong óc người ta cả thảy, thì không có việc chi hơn việc giảng báo nữa. Làng ta xưa nay vẩn thanh danh vạn vật, hơn trong một tổng có điền địa..... mẫu, có nhân dân...... người, phong khiến phong tục hủ xưa cải cách hết đi, cơ nghiệp mới nay vun trồng gấp lên, có lẽ nào mà không thành ra một làng phú thứ. Tiếc thay cho vì một việc: chốn đất nầy đã không phải chốn giao thông tiền lợi, và lại người bây giờ ít kẻ nghe rộng thấy nhiều, mổi việc chỉ những theo nước bước cũ, thủng thẳng rù rờ, qua xong trong lúc rày mai, không kể đến sự công vạn thế. Bao nhiên kim tiền đem vất về những đường vô dụng thời dân ngày càng nghèo thêm, bao nhiêu tâm huyết đem đổ vào những đường hữu-hại; nên dân càng ngày càng yếu thêm, bao nhiêu thức dụng rặt là hóa-phẫm ở ngoài đưa vào, mà mình không một giống gì hay chế tạo, bao nhiêu sự nghiệp rặt là theo tập-quan hủ-bại ngày xưa, mà mình không tí gì biết canh tân!
Ôi! thử đứng dậy mà dòm bốn bể người ta ai nấy những là đua phú tranh cường, ngày ngày cầu cho tấn bộ, mà cha anh con em làng ta những rè-rè rụt-rụt thối bộ cũng đành vậy mà thôi. Ngó về trước thời tiếng tăm cơ nghiệp tổ tiên ta e có ngày càng thêm suy đốn, ngó về sau thì vận mệnh tương lai con cháu ta không có thể mong cho ngày càng hưng vượng.
Vì sao đến thế? Hay là người ta mù điếc hay sao? Chắc là không phải, chỉ bởi vì tối ngày quanh quanh ở trong nhà thời mắt sáng cũng như mù, chuyện trò những bịt trong cánh cửa, thời tai tỏ cũng như điếc. Thấy nghe ngày càng chật hẹp thời thông minh lấy gì mà mở mang, thông minh càng ngày càng bịt-bùng thời trí-thức lấy gì mà nẫy nở. Người như thế mà muốn cùng nhau lo việc phú cường có khác gì đánh đẩy con hôn què, mà khiến nó đi con đường muôn dặm, chắc là nguy hiểm mà thôi. Bây giờ muốn cứu cái bịnh hoạn nầy thời không chi bằng khiến người ta ham đọc tờ giấy nhựt trình, nhóm hết việc trong thế giới mà thu lại trước con mắt, thời việc gì cũng thấy cả. Nhóm hết lời nói người trong ngoài mà thu vào bên lổ tai thời lời gì cũng nghe được cả. Nghe thấy ngày một thêm thời trí thức chắc là càng nảy nở. Trí thức ngày một rộng, thời sự nghiệp mới biết đường cải lưởng. Rửa sạch những dấu cũ liệt bại ngày xưa, mà dần dần tấn lên đường ưu thắng. Làm được thành công như thế, thiệt vì có giấy nhựt-trình làm môi giới cho; lý do sở dĩ khai thiết hội giảng-báo ấy là vì vậy.
Bây giờ lại nói đều thứ hai: Là những sự lợi ích người ta coi báo sở đắc ra thế nào?
1• — Người ta xúm nhau ở chung trong một nước nhưng dân trong một nước tức là đồng họ trong một nhà. Tiếng hát ai cũng vui chung, tiếng khóc ai cũng buồn chung. Việc đau đớn thời đau chung, việc sung sướng thời sướng chung. Ở phía tình thời có như thế mới đành, ở phía lý cũng có như thế mới là đáng. Song bởi vì nước ta giao thông còn chưa được mười phần phát đạt. Sông nầy khe nọ vì khèo-khúc mà cách đoạn tấm lòng ta; dặm bắc đường nam, vì xa xuôi mà chia lìa chưn tay ta. Từ xứ nọ tới xứ kia vì cái giới hạng thiên nhiên nên nổi anh em con một nhà không bao giờ ngồi với nhau mà trò chuyện được. Tính tình không thể nào mà thông với nhau, trí thức không thể nào mà đỡ đổi nhau. Thiệt là một cái việc rất đau đớn, bây giờ muốn chữa hết cái đau đớn ấy thời tất phải nhờ cái giấy nhựt-trình; Giấy nhựt-trình kia là cái họng lưỡi cho nhân dân ta vậy. Đọc tờ giấy nhật-trình Bắc-kỳ, tức là ngồi nói chuyện với người đồng bào ở Bắc-kỳ.
Đọc tờ giấy nhật-trình Nam-kỳ tức là ngồi nói chuyện với đồng bào Nam-kỳ. Tính tình có thế mới hay thông nhau, trí thức có thế mới hay đỡ đổi nhau. Liên lạc cái cảm tình cũa người ta, thiệt lấy tờ giấy nhựt-trình làm cái cơ quan rất lớn. Ấy là lời ích thứ nhứt.
Ở trong một nước, hoặc các tỉnh, phủ cho đến các đô thành, phàm những đồ con người ta ngày thường phải dùng đến: nào là đồ ăn, nào là đồ mặc, nào là tài liệu các đồ ở, nhưng vì thổ nghi với khí hậu tùy mọi nơi mà khác nhau, thời cái vật sản với thời giá cũng tùy mọi nơi mà khác nhau. Cũng có giống ở chốn nầy thời quá đắt mà đến chốn kia lại quá rẻ. Cũng có giống ở chốn nầy thời quá nhiều mà chốn kia lại quá ít. Lỗ tai, con mắt người ta đã khốn khổ vì chí ở trong một góc, mà vả lại thơ từ tin tức có thế nào mà luôn luôn thông được nhau. Cho nên cái vật sản với thời giá các địa-phương người ta có thể nào mà ngày nào, chốn nào cũng trực tiếp được mọi sự chơn-thực. Thường thường vì tai nghe mắt thấy nhiều sự mơ hồ mà sinh xuất ra cái trở-lực rất to cho công-thương thực-nghiệp. Cái việc ấy khốn nạn biết là bao nhiêu. Bây giờ muốn trừ hết cái khốn nạn ấy thời tất phải nhờ tờ giấy nhựt-trình. Tờ giấy nhựt-trình là tai mắt cho người ta vậy. Cái vật sản một chốn nào thời nhờ có giấy nhựt-trình một chốn ấy mà ta có lẽ xét được. Cái thời giá ngày nào thời nhờ có tờ giấy nhựt-trình ngày ấy mà ta có lẽ tra được. Nào là nhà công-nghiệp, nào là nhà nông-nghiệp, nào là nhà thương-nghiệp, ai nấy cũng mở tờ nhựt-trình mà được cái tiêu-tức rất đích thực. Đem cái có ở chốn ấy, mà đổi cái không ở chốn kia. Đem hột lúa Nam mà dời qua Bắc, đem người thợ Bắc mà đổi qua Nam, tất cậy tờ giấy nhựt-trình làm một người hướng-đạo. Ấy là việc lợi ích thứ nhì.
Lại có một sự lợi ích nầy là đều thứ ba, cái sự lợi ích nầy thuộc về phần tư-tưởng, phần lý-luận là vì có tư-tưởng mới sinh ra. Đã sinh ra lý-luận mới hay sinh ra sự thực. Cho nên có một cái chức nghĩa gì mà muốn thành ra sự thực, tất phải trước cầu cho có một bài lý-luận, một bài lý-luận đó mà muốn đề xướng cho người ta nghe, tất trước phải cầu cho có một mối tư-tưởng. Nhưng giống tài liệu làm cho truyền bá được cái tư-tưởng, không giống gì là bằng giấy nhựt-trình. Ở Bắc-kỳ có một tư-tưởng gì nhờ có nhựt-trình mà truyền thấu đến Nam-kỳ. Nam-kỳ có một tư-tưởng gì nhờ có giấy nhựt-trình mà truyền thấu đến Bắc-kỳ.
Xưa nay tư-tưởng của người ta có kẻ vì hoàn-cảnh khác nhau mà tư-tưởng ngày xưa với ngày nay thường hay thay đỗi; cũng có kẻ nhân-nảo cân với cảm-tình xui khiến, mà tư-tưởng cũ cùng tư-tưởng mới thường hay xung đột nhau. Ở trong những thời kỳ ấy, có nhiều khi là tư-tưởng vận tốt xấu chưa rành nhưng mà ai nấy đã có tư-tưởng, tất cũng muốn truyền bá ra ở trong một đời, thế tất phải nhờ giấy nhựt-trình làm một bộ máy truyền thanh. Giấy nhựt-trình là cái ống điện thoại của nhà tư-tưởng vậy. Vì vậy cho nên một chốn nào mà nhiều giấy nhựt-trình thì một chốn ấy chắc hay lưu truyền cái tư-tưởng, tư-tưởng đã để lưu truyền thời có lẽ thành ra lý-luận, lý-luận đã đầy đủ thời chẳng bao lâu cũng thành ra sự thực. Mới biết giấy nhựt-trình chẳng phải những phát biêu tư-tưởng mà thôi; cũng chẳng phải những cổ xuy lý-luận mà thôi. Mà thực là một phương thuốc thôi-tinh để cho nảy nở vô số sự thực. Ấy là lợi ích thứ ba.
Xét như ba đều lợi ích tôi bàn ở trên ấy, thời cái công lao nhà viết báo chúng ta thực nên kỹ niệm cho nguời ta. Mà kỹ niệm cho ngưòi ta thời tất phải mua báo cho nhiều, mua báo cho nhiều, đọc báo cho nhiều, giảng báo cho nhiều. Ấy mới là kỹ niệm cho nhà làm báo, lại là mua chuộc những sự lợi ích rất lớn lao cho chúng ta. Nghĩ đã hết lẽ như thế vài ba đồng xu một tờ báo chúng ta có tiếc làm gì. Là bởi vì ta hao tổn chỉ có vài ba đồng xu mà được những sự lợi ích vô cùng vô tận. Vườn hoa công ích phải nhờ nhà viết báo làm kẻ trồng cây; đài hát văn minh phải nhờ người giảng báo làm thầy đánh nhịp. Anh em chị em ta ai nấy xin người xuất tài kẻ xuất lực cho sự nghiệp hội giảng báo nầy càng ngày càng hưng thịnh vẻ vang. Tôi nay đương ngày mới khai hội, tôi xin rót giọt máu nhiệt-thành đốt nén hương danh-dự mà chúc cho hội giảng báo nầy được trường thọ.