Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/B

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

B

  1. Bạ ăn bạ nói.
    Bạ ăn, gặp đâu ăn đó ; bạ nói, đụng đâu nói đó, nghĩa là ăn nói không có phép.
  2. Ba bảy hai mươi mốt.
    Ăn nói không chắc chắn, nói hai đều như một.
  3. Ba chìm ba nổi.
    Nghĩa là thì vận tráo chác, ghe phen chìm nổi ; có tiếng nói phù trầm, hay là chìm nổi không mà thôi thì có nghĩa là bưa bưa không ra đen đỏ.
  4. Ba chớp ba sáng.
    Nghĩa là trông thấy không tỏ rõ.
  5. Bà con xa, chẳng bằng xóm diềng gần.
    Gần thì tiện bề tới lui giúp đỡ, chẳng khá phụ kẻ gần.
  6. Ba dãy bảy ngang.
    Hàng hóa, đồ đạc bày ra liễn lúc.
  7. Bá nhơn bá tánh.
    Trăm người trăm tánh ý.
  8. Ba vuông bảy tròn.
    Tiếng khen người đủ nét lịch sự, hay là tuyền vẹn không có tì tích.
  9. Bần cùng sanh đạo tặc.
    Nghèo cực sanh trộm cướp.
  10. Bạn duật tương trì, ngư ông đắc lợi.
    Ngao cò tranh nhau, ông bắt cá được lợi. Tích rằng : ngày kia con ngao lên bờ hé vỏ ra hóng mát, con cò đi ăn thấy ngao bày ruột, thì mổ mà ăn, chẳng dè con ngao khép vỏ lại, kẹp lấy mỏ con cò giựt không ra. Cò rằng nay không mưa mai không mưa, ắt là ngao phải chết. Ngao rằng nay không ra mai không ra, ắt là cò phải chết. Ông chài thấy chuyện cớ trêu, thì chụp mà bắt cả hai.
  11. Bang môn lộng phủ.
    Giỡn búa nhà Bang, nghĩa là không biết bổn phận, ông Lổ bang là thầy dạy các nghề nghiệp.
  12. Bằng hữu chỉ ư tín.
    Nghĩa bằng hữu ở tại đều tín thành, không tín thành thì không thiệt là bằng hữu
  13. Bánh sáp đi, bánh chì lại.
    Thói mọi ưa dùng chì thiết đồ mềm, không quí vàng bạc. Kẻ chợ đổi chác với nó, phải lấy thăng bằng, nó một bánh sáp mình một bánh chì, nghĩa là, phải cho bằng nhau ; bây giờ ơn nghĩa qua lại với nhau thì hay nói vân vân.
  14. Bạo đầu thì dại, bạo dái thì khôn.
    Con người phải cho dè dặt, chớ khá nhẹ dạ, hốp tốp. Bạo đầu là táo bạo lúc ban đầu.
  15. Bạo phát bạo tàn.
    Nói về thì vận, hễ phát đạt vội, thì tàn bại cũng vội.
  16. Bảo tân cứu hoả.
    Ôm củi mà chữa lửa : cứu bịnh giải hòa chẳng dùng thuốc hay, lời phải, lại dụng phương nghịch lời ngang, thì cũng như làm cho lửa cháy thêm.
  17. Bát bể, đánh con sao lành :
    Nghĩa là không lẽ tiếc cái bát bể hơn con. Xưa có một người mua một cái bình, cầm đi đàng, rủi bình rơi xuống, bể đi, người ấy đi xuôi một bề ; người ta hỏi sao bình bể không ngó lại, người ấy rằng bể rồi thì thôi, dầu tiếc cũng vô ích.
  18. Bắt cá hai tay.
    Nghĩa là hai tay muốn đặng cả hai ; song muốn cho đặng cả thì phải tay chận tay bắt, nếu hai tay chụp lấy cá, thì không có tay nào đặng, cũng có nghĩa là giành lấy một mình.
  19. Bất can kỉ sự, mạc đương đầu.
    Chẳng can việc mình, đừng xứng ra mà chịu, nghĩa là chẳng nên thày lay, gánh việc vô can.
  20. Bất cấp chi khách.
    Bất thỉnh tự lai, thì là khách không gấp, vì là không có mời.
  21. Bắt chuột không hay, hay ỉa bếp.
    Nghĩa là dở tài ; con người, nên không thấy, thấy hư ; hay không thấy, thấy dở, thì là con mèo ỉa bếp.
  22. Bắt cóc, bỏ vào dĩa.
    Cóc hay nhảy, dĩa trẹt lòng, không phải đồ nhốt, cho nên mới có bỏ vào nhảy ra. Người hay trốn tránh, bắt đó trốn đó, hay là dễ bắt thì nói vân vân.
  23. Bất đăng tuấn lảnh, bất tri thiên cao, bất lý thâm nhai, bất tri địa hậu.
    Chẳng lên non cao, chẳng biết trời cao, chẳng xuống vực sâu, chẳng biết đấy dày : chẳng học tới sách thánh hiền, thì chẳng biết mùi đạo.
  24. Bất dĩ thành bại, luận anh hùng.
    Chớ lấy sự nên hư mà luận kẻ anh hùng, nhứt là nói về việc chinh chiến, vì đặng thua là sự thường.
  25. Bắt đứa có tóc, không ai bắt đứa trọc đầu.
    Có tóc hiểu là người có căn kước sự nghiệp ; đứa trọc đầu là đứa tay không, không gốc, chỉ nghĩa là cứ người có gốc, hay là có thể ăn nhờ.
  26. Bất học vô thuật.
    Không học thì không có mưu chước biến hóa.
  27. Bắt lươn đàng đuôi.
    Mình lươn nhớt, bắt đàng đuôi, lại càng không có thế nắm, thì bắt cũng như không.
  28. Bất oán thiên, bất vưu nhơn.
    Chẳng hờn trời, chẳng trách người, nghĩa là phải an phận mạng.
  29. Bắt râu người nọ, đặt cằm người kia.
    Nghĩa là tráo chác, chuyện người kia nói cho người nọ, hay là điên đảo thị phi.
  30. Bất sỉ hạ vấn.
    Chẳng hồ hỏi kẻ dưới. Ai ai cũng có chỗ khuất, chớ cậy mình rằng thông minh. Có câu rằng : mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích. thì là làm vậy.
  31. Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chánh.
    Không chịu tước vị của người, thì không lo việc chánh cho người. Không có danh phận gì mà muốn gánh vác chuyện kẻ khác thì là thày lay.
  32. Bát trong song, còn có khi động.
    Hiểu nghĩa là bà con ở chung một nhà, không lẽ khỏi sự mất lòng nhau, cũng như bát chén là vật vô tình, để chung một sóng, dầu không ai động, cũng có khi khua.
  33. Bảy mươi chưa què, chớ khoe mình lành.
    Tật đàng sau lưng. Con người dẫu đến tuổi bảy mươi là bậc già cả, cũng chẳng nên đắc ý rằng khỏi tật.
  34. Bảy mươi học bảy mươi mốt.
    Tuổi bay mươi với bảy mươi mốt, khác nhau có một năm, thì có lẽ trả việc hơn một năm.
  35. Bè ai nấy chống.
    Nghĩa là ai có phận nấy, lại việc ai nấy làm. Trước một trăm năm, đất Đồng-nai còn hoang vu, có nhiều người kết bè trôi nổi dưới sông, chủ nào bè ấy bà con xúm xít ở theo nhau, có việc thì chèo chống với nhau ; lại tiếng người ta chưởi mắng rằng : cả bè bây, thì là mắng cả bà con, cũng như tiếng mắng : cả máng, cả sốc vân vân.
  36. Bế môn trục đạo.
    Đóng cữa lại mà đuổi kẻ trộm, ấy là lời chê thầy thuốc không biết phép trị bịnh, hoặc phải đuổi bịnh như làm hạn làm hạ mà dụng thuốc cầm, thì là nuôi lấy bịnh.
  37. Bẻ nạng[đính chính 1] chống trời.
    Chẳng lường sức mình.
  38. Bề trên ở chẳng kỷ cang, cho nên bề dưới làm đàng mây mưa.
    Có câu rằng : thượng bất chánh hạ tắc loạn. Nghĩa là trên ở chẳng chánh thì dưới loạn.
  39. Bỉ cực thới lai.
    Vận thì có khi bỉ, khi thới, hết cơn bỉ cực, tới tuần thới lai ; tiếng khuyên không nên ngã lòng.
  40. Biết một mà chẳng biết mười.
    Nghĩa là chưa biết đủ đều.
  41. Biết ngứa đâu mà gãi.
    Muốn gãi cho mà không biết chỗ nào phải gãi ; muốn làm giùm, mà không biết việc chi phải làm, ấy là lời nói lẩy.
  42. Biết người biết mặt, chẳng biết lòng.
    Chẳng có lẽ tin việc bề ngoài.
  43. Bình địa khởi phong ba.
    Đất bằng nổi sóng gió, chính nghĩa là đặt để hư không, bày việc phi lý, gây nên sự giận dữ, oán thù.
  44. Bình phong tuy phá, cốt cách du tồn.
    Bình phong dầu bể, cốt cách tư chất hãy còn, có ý nói về người trâm anh tài đức, dầu có đều hư, cũng còn có đều nên.
  45. Bịnh tùy khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất.
    Bịnh theo lỗ miệng mà vào, họa hại theo lỗ miệng mà ra : một hơi thở vào, hoặc đem khí độc vào trong mình, mà làm bịnh ; một lời nói ra, hoặc buông đều quấy ra ngoài tai mà gây họa.
  46. Bộ phong tróc ảnh.
    Bắt gió bắt bóng, nghĩa là làm chuyện bá vơ không chắc chắn.
  47. Bói ra ma, quét nhà ra rác.
    Có ý nói người hay tin sự gì, liền có sự ấy, dầu phép bói là phép không thật, song hễ là tin mà bói, thì liền có đều tà mị xuôi cho mình tin.
  48. Bói rẻ hơn ngồi không.
    Rẻ mà có, thì hơn là không có. Lời ít mà năng lời, thì chẳng hơn là nhiều mà không mấy khi có.
  49. Bôi trung xà ảnh.
    Hình con rắn ở trong chén rượu. Tích rằng : Có một người tới nhà anh em bạn mà uống rượu, ngó thấy trong chén rượu có hình con rắn, liền hồ nghi anh em bạn bỏ thuốc độc, không an trong lòng ; người anh em bạn thấy vậy, biết ý thì lấy cái cung treo trên vách mà cất đi, liền mất bóng con rắn.
  50. Bòn tro đải trấu.
    Bòn tro mà kiếm những than, giăm nhỏ nhỏ lộn theo, đải trấu mà kiếm hột gạo gãy hột lúa lửng còn sót. Làm ăn cần kiệm, bòn mót, chắt lót, thì nói thể ấy. Ở ngoài kia có một hai chỗ không củi, phải thổi bằng rơm cỏ cùng là rác to.
  51. Bồng em thì khỏi xay lúa, xay lúa thì khỏi bồng em.
    Không lẽ bắt một người làm hai việc một lượt.
  52. Bụng làm dạ chịu.
    Mình làm mình chịu, nhữ tác ưng hườn nhữ thọ.
  53. Bưng mắt bắt chim.
    Chuyện dễ làm ra khó.
  54. Buôn gặp chầu, câu gặp chỗ.
    Gặp dịp làm ăn.
  55. Buôn dầm cầm chèo.
    Làm không hở tay.
  56. Buôn tay mặt, bắt tay trái.
    Liền tay, xấu tốt cắt nghĩa cũng thông.
  57. Bút sa gà chết.
    Học trò có thói ăn tiền nhuận bút, có viết thì có tiền công. Lại một chữ thêm vào cũng gây nên tội phước, một nét bút sa xuống cũng có đều rủi may, cho nên kẻ có việc phải sợ, cùng phải chết gà.
  1. Gốc: nạn được sửa thành nạng: chi tiết