Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/H

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

H

  1. Hà địa bất sanh tài.
    Đất nào chẳng có sanh kẻ tài, nghĩa là đâu đâu cũng có kẻ anh tài.
  2. Hai chín chống nhau.
    Cách đánh bài chín, lấy số 9 làm lớn ; hễ hai ngườí đều đặng số 9, thì huề với nhau, không còn ăn thua. Hiểu nghĩa là hai người có tài có sức hay là hung dữ như nhau, có kình địch hay là làm sự gì cho nhau, thì phải huề.
  3. Hai gái lấy một chồng.
    Sự thể hai gái lấy một chồng, thì chẳng có lý thuận hòa.
  4. Hai vai gánh nặng hòa hai.
    Nghĩa là khó xử, khó tính ; nặng là nặng tình nặng ngãi : như vị bên tình thì phải bỏ bên ngãi vân vân.
  5. Hái củi ba năm thiêu một giờ.
    Nghĩa là làm ra lau mà phát đi không mấy lát. Thường hiểu về tiền của làm ra lâu lắc khó nhọc, dẫu tích trử cho nhiều, mà xa xí không biết tiếc, thì có lẽ phá tan trong giây phút.
  6. Hại nhơn nhơn hại.
    Nghĩa là báo ứng nhãn tiền, không phải đợi chánh người bị hại hại lại.
  7. Ham ăn mắc bẩy.
    Con ngoại vật ham mồi thì thường bị người ta bắt ; con người tham ăn không biết xét trước xét sau, thì phải mắc mưu.
  8. Hàm chó vó ngựa.
    Con chó hay cắn, con ngựa hay đá, đều phải giữ thế.
  9. Hàm huyết phúng nhơn tiên ô tự khẩu.
    Nghĩa là ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình. Chưởi rủa người ta thì mình mang lấy tội chưởi rủa trước.
  10. Hằng hà sa số.
    Nghĩa là nhiều vô số, như cát sông Hằng.
  11. Hành tàng hư thiệt tự gia tri, họa phước nhơn do cánh vấn thùy.
    Nghĩa là việc làm kín đáo, tốt xấu, có không tự mình biết, duyên cố họa phước lại hỏi ai ; hư nên, họa phước phải hỏi nơi mình.
  12. Hành thuyền kị mã tam phân mạng.
    Đi thuyền, cỡi ngựa, ba phân mạng, chỉ nghĩa là đi ghe cỡi ngựa rất hiểm nghèo, mạng sống còn có ba phân.
  13. Hạc lập kê quần.
    Hạc đứng giữa bầy gà, nghĩa là xuất chúng, lại có nghĩa là quân tử tiểu nhơn không phân biệt.
  14. Hào ly chi sai, thiên lý chi mậu.
    Nghĩa là sai một ly một mảy, thì lỗi lầm tới ngàn dặm.
  15. Hậu dược thành công.
    Thuốc sau nên công, không phân biệt thầy hay dở ; hễ uống thuốc thầy sau hết mà lành bịnh, thì nói thầy ấy là hay.
  16. Hậu sanh khả úy.
    Nghĩa là chẳng nên khinh rẻ hậu sanh, ấy là lời đức Khổng-tử khen Hạng-Thác là một đứa con nít thông minh, nói nhiều đều khôn ngoan, như hỏi việc nhãn tiền, chang mày có mấy cái lông, người chịu thua.
  17. Hậu làm bạc, bạc đem làm hậu.
    Chê người không phân biệt chỗ ơn nghĩa trọng khinh.
  18. Hãy cho bền chí câu cua, dầu ai câu trạnh câu rùa mặc ai.
    Cùng là câu hát ; hiểu nghĩa là phải cho có chí, chuyên một việc, hay là cứ việc mà làm.
  19. Hay chữ chẳng bằng hay giữ.
    Học thì phải có hành, nếu học mà không hành thì là đồ tri kì mạt, biết ngọn ngành mà thôi.
  20. Hết chay thầy đi đất.
    Nghĩa là phủi ơn, có việc thì tâng trọng thầy, để ở trên giàn, hết việc bạc đãi thầy, để đi dưới đất, hậu đó bạc đó.
  21. Hết xôi rồi việc.
    Nghĩa là cho ăn rồi hoặc cúng cấp rồi thì hết việc, không còn lễ nghĩa, hay là ân tình có tầng ấy mà thôi, cùng có nghĩa làm việc lấy rồi.
  22. Hiến mi cầu vinh.
    Ấy là nghề tiểu nhơn, muốn cho đặng sang, thì hay khúc ý, thừa thuận, phùng nghinh.
  23. Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch nhi.
    Nghĩa là thảo thuận bè sanh con thảo thuận, ngỗ nghịch lại sanh con ngỗ nghịch ; cha thể nào, con thể ấy hay là hữu thị phụ hữu thị tử.
  24. Hồ giả hổ oai.
    Nghĩa là mượn quyền thế. Tích rằng : con chồn bị cọp chụp nói với cọp rằng : tao là chúa các loài thú, mầy không đặng đá động tới mình tao, chẳng tin mầy đi thử với tao mà coi ; con cọp nghe lời đi với con chồn, tới đâu thấy các loài thú đều khép nép.
  25. Hộ hôn điền thổ, vạn cổ chi thù.
    Nghĩa là việc nhà cữa, vợ chồng, ruộng đất là việc thù muôn đời, trong các việc ấy, nếu đều bất bình, thì sanh ra việc kiện thưa hềm thù chẳng khi nào thôi.
  26. Hổ phụ sanh hổ tử.
    Nghĩa là cha cọp sanh con cọp, cha dữ sanh con dữ.
  27. Họa hổ bất thành.
    Vẽ cọp không nên. Mưu sự không rồi, tính việc không xuôi.
  28. Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhơn tri diện bất tri tâm.
    Vẽ hàm vẽ da khó vẽ xương, biết người biết mặt chẳng biết lòng.
  29. Họa hổ loại cẩu.
    Vẽ cọp giống chó. Nghĩa là làm khéo hóa vụng,
  30. Họa khởi ư tiêu tường.
    Họa dấy nơi buồng the, nghĩa là họa gây tại trong nhà, đều bỡi mình không biết xử trí.
  31. Họa lai thần ám.
    Họa tới tối trí khôn. Hễ mình lâm hoạn thì tính không ra đều. Có câu đối rằng : Phước chí tâm linh.
  32. Họa phù thân đái.
    Vẽ bùa mà đeo cho mình, nghĩa là tư lịnh.
  33. Họa phước vô môn, di nhơn tự triệu.
    Họa phước không cữa, một tại người vời. Hễ làm phước thì phước tới cho, làm dữ thì dữ tới cho.
  34. Họa xà thiêm túc. (Vẽ rắn thêm chưn).
    Nghĩa là không có làm cho có, hoặc có nghĩa là thêm việc ; xà bổn vô túc, hữu túc phi xà, nghĩa là vốn rắn không chưn, có chưn không phải rắn.
  35. Hỏa thượng thiêm du.
    Trên lửa thêm dầu, nghĩa là khích gan, chọc giận hay là gây thêm sự dữ.
  36. Hoạch tội vu thiên vô sở đảo dã.
    Mắc tội với trời, không chỗ cầu vậy, có câu rằng : Thiên tác nghiệt, du khả vi, tự tác nghiệt bất khả huật. Cố ý nghịch mạng trời, cam lòng làm dữ thì hóa ra buông lung, hung ác, cho nên không còn chỗ cầu cứu.
  37. Hoạn đắc hoạn thất.
    Chưa đặng lo cho đặng, đặng rồi lại sợ mất, cả đời bo bo một sự đặng mất.
  38. Hoạn bất tài, hà hoạn vô dụng.
    Sợ không có tài, sợ gì không dụng ; người có tài thì chẳng ai bỏ, có tài mà không thấy dụng thì là chưa gặp thì.
  39. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn.
    Vì Hoàng thiên chẳng phụ bạc lòng người tốt. Hễ làm lành thì sẽ gặp lành.
  40. Hoạnh tài bất phú.
    Nghĩa là của phi nghĩa không bền hay là không làm giàu cho ai.
  41. Hoành thâu nghịch phát.
    Thâu chẳng phải lẽ, thì tán ra cũng không phải lẽ. Nghĩa là không lẽ cầm của trái lẽ.
  42. Học sư bất như học hữu.
    Học thầy chẳng bằng học bạn ; học với thầy phai thủ lễ, ít dám hỏi han, học với bạn là học đòi không phải câu thúc.
  43. Hom tranh bẻ hai.
    Nghĩa là chia đồng đều.
  44. Hôn dạ khất ai, kiêu nhơn bạch nhựt.
    Đêm hôm xin thương, ngày sáng kiêu với người, ấy là chánh bịnh những người bất tài không biết liêm sỉ, lo lót với người ta mà làm mặt không lo, hay là lạy dạ khẩn cầu cho đặng việc, rồi thì tự thị làm mặt không cầu ai.
  45. Huynh đẹ như thủ túc.
    Anh em như tay chơn, có câu khác rằng : phu phụ như y phục, áo rách còn có lẽ vá, tay chơn lìa chẳng có lẽ nối, nghĩa là anh em khó kiếm.
  46. Hùm chết để da, người ta chết để tiếng.
    Làm người ở đời một là lưu danh thiên cổ, hay là di xú vạn niên.
  47. Hùm dữ chẳng ăn thịt con.
    Có câu rằng : Phụ tử chi tình vô bất ái, cha mẹ không lẽ giết con, cho nên có câu nôm : tay phân tay bao nở, ruột cắt ruột bao đành.
  48. Hương đảng mạc như xỉ.
    Phép hương đảng chẳng gì hơn tuổi. Phép ở làng không luận chức tước, phải trọng kẻ tuổi tác hơn.
  49. Hùm mất thịt.
    Nghĩa là táo tác làm dữ, không yên.
  50. Hung trung vô vật.
    Trong lòng không có vật gì. Hiểu là người tự nhiên, không có bụng gì, không thiện với ai, không ác với ai.
  51. Hữu danh nhàn phú quí, vô sự tiểu thần tiên.
    Nghĩa là thú nào vui thú ấy, hữu danh với vô sự cũng bằng nhau.
  52. Hữu danh vô thật.
    Tên có mà sự thật không có, có câu đối nghĩa rằng : danh xứng kì thiệt.
  53. Hữu dõng vô mưu.
    Nghĩa là có một sự mạnh, mà không có mưu chước.
  54. Hữu duyên thiên lý ngộ.
    Có duyên ngàn dặm cũng gặp nhau, hay là ngàn dặm gặp nhau vì là có duyên.
  55. Hữu lao vô công.
    Nhọc thì có mà không ai kể công ơn.
  56. Hữu lịnh sắc, hữu ác đức.
    Có sắc tốt thì có đều ác đức. Hễ gái đặng bề lịch sự, thì lại mất bề đức hạnh ; cho nên có sc khuinh thành.
  57. Hữu quá tắc cải.
    Có lỗi hay là biết lỗi thì chừa, nghĩa là chẳng khá chấp mê. Có câu đối rằng. đắc năng mạc vong nghĩa là làm đặng thì chớ bỏ qua.
  58. Hữu sự bái tứ phương.
    Có việc lạy bốn phương, nghĩa là mình có việc thì phải đầu lụy mọi người.
  59. Hữu thân hữu khổ.
    Có thân thì có khổ, nghia là không nên sờn lòng. Có chỗ nói : hữu thử thân, hữu thử khổ cũng là một nghĩa.
  60. Hữu thạnh hữu suy.
    Có thạnh thì có suy, ấy là lẽ dinh hư tiêu trưởng.
  61. Hữu thành tắc hữu thần.
    Có lòng thành kính, thì có thần linh cảm cách hay là tương ứng.
  62. Hữu thế bất khả ỷ tận.
    Có thể chẳng khá ỷ hết ; lại có câu rằng : hữu phước bất khả hưởng tận, ai ai cũng có dinh hư tiêu trưởng, ỷ tận, hưởng tận, thì là làm cho hết thế hết phước.
  63. Hữu thỉ vô chung.
    Có trước mà không có sau ; nghĩa là không trọn, không chung cùng.
  64. Hữu ư trung tất hình ư ngoại.
    Một nghĩa với câu cố ư trung vân vân.
  65. Hữu xạ tự nhiên hương.
    Có vị xạ, tự nhiên thơm ; mình có tài đức tử tế thì có công luận thiên hạ : Có câu nối rằng : hà tất dương phong lập ; nghĩa là nào phải đứng ra giữa gió.
  66. Huyện mãn nha môm không mãn.
    Quan đổi, phép nha môn không đổi ; kẻ nha lại cũng không đổi.
  67. Húy tử tham sanh.
    Người ta nói rằng : Con chó còn muốn sống mà ăn dơ, thì dẫu là ngoại vật cũng đồng muốn sợ sống chết. Song cũng có khi phải xả sanh nhi thủ nghĩa, hoặc sát thân dĩ thành nhơn. Ông-Mạnh tử nói rằng : Kì sở dục hữu thậm ư sanh dã, cố bất vi cẩu đắc ; sở ố hữu thậm ư tử dã, cố hữu sở bất tị.