Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/O

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

O

  1. Ở cho phải phải phân phân, cây da cậy thần, thần cậy cây da.
    Cây da có thần dựa vào mới linh, thần cây da mới có chỗ dựa. Thế phải tương y tương ỷ cùng nhau.
  2. Ố nhơn thắng kỉ.
    Ghét người hơn mình; nói nôm thì là, Ghen hiền ghét ngỏ: ; nói chữ thì là đố hiền tật năng.
  3. Oa giác công danh, nhăng đầu vi lợi.
    Công danh sừng ồc, ; lợi mọn đầu lằng ; nghĩa là danh lợi không bền.
  4. Oan oan tưnơg báo.
    Làm oan khiên, mắc oan khiên, cũng như nói dữ có dữ trả.
  5. Ốc mượn hồn.
    Ngất ngơ, không thật tính ; xác còn hồn mất, phải mượn hồn khác. Có thứ ốc hay vào trong xác con ốc chết mà ở.
  6. Ốc như huyền khánh.
    Nhà như treo khánh. Gia đồ bích lập ; gia vô đãm thạch ; gia vô trường vật ; tứ btch tiếu nhiên, đều có nghĩa là nghéo lắm.
  7. Ôn cố nhi tri tân.
    Ôn cũ mà biết mới. Cũ mà ôn lại, học lại, thì hóa mới, cùng sanh trí mới.
  8. Ống tre đè miệng giạ.
    Phép đong giạ, cứ khoả sét hay là bằng mặt giạ thì vừa. nghĩa là cứ mực thiệt. Ống tre ấy là ống gạt.
  9. Ông ăn chả, bà ăn nem.
    Vợ chồng đồng tình làm quấy : ông mê nữ sắc, bà lại ngoại tình.
  10. Ông tha mà bà chẳng tha, đánh một cái lụt mồng ba tháng mười.
    Thường năm tới tháng mười, thì có mưa lụt làm hư hại ruộng nương cây trái. Ông Trời muốn làm hiền, làm dữ là tại bà Đất, cho nên mới có nước lụt dưng lên. Cũng là tiếng nói chơi.
  11. Ong vỡ ổ.
    Ấy là thế vở lở, dây dức. Chọc người độc dữ thì là chọc ong vò vẻ. Người xấu nết hay giận, nói lành sanh dữ, lằm bằm nói không ra đều thì gọi là nết bọ hung.