Bước tới nội dung

Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/N

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

N

  1. Nai ăn đâu nát giạu đó.
    Ỡ nhà đất người, không khỏi đều thiệt hại cho người.
  2. Nai giạt móng, chó cũng le lưỡi.
    Không làm chi nhau đặng.
  3. Nam đáo nữ phòng nam tắc tử, nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm.
    Trai tới phòng gái, thì trai phải chết ; gái tới phòng trai, thì là gái dâm. Trai phải chết vì mắc luật cường gian, thích khách ; gái tiếc hạnh thì chẳng lìa quê thác.
  4. Nam nữ bất tạp tọa.
    Trai gái chẳng ngồi chung chạ. Lễ dạy trai gái phải phân biệt ; cũng phải tị hiềm nghi.
  5. Nam nữ thọ thọ bất thân.
    Trai gái trao chịu chẳng gần, ấy là lời thánh hiền phòng vi đỗ tịm, muốn cho trai gái xa đàng sắc dục ; vì lửa gần rơm thì chẳng lẽ khỏi cháy.
  6. Nam thực như hổ, nữ thực như miêu.
    Ấy là đều tự nhiên theo bộ vận trai mạnh gái mềm ; làm trai mà yếu ăn, thì không khỏi bịnh,
  7. Nan huinh nan đệ.
    Khó đặng anh khó đặng em : anh em ít có.
  8. Năng thuyết bất năng hành.
    Hay nói, chẳng hay làm, thì là nói phách, hay là nói pháo.
  9. Năng may hơn dày giẻ.
    Nghĩa gần là : giẻ tầm thường thì phải năng thay, mà năng thay thì năng bận đồ mới ; giẻ dày chậm may thì phải cũ càng. Nghĩa xa là : May mắn nhỏ mà năng thì hơn may mắn lớn mà thưa. Làm đặng ít mà năng thì hơn nhiều mà hiếm có chăng ?
  10. Nắng bề nào, che theo bề ấy.
    Chìu theo thì thế.
  11. Nắng lửa mưa dầu.
    Nắng như lửa mưa như thêm dầu, thì là mưa ít nắng nhiều, làm cho nồng nàn hơn nữa.
  12. Nát giỏ còn bờ tre.
    Còn có thế lập lại, hay là mất cái nọ còn sắm đặng cai khác. Thường hiểu về tiền bạc, của cải.
  13. Ngãi đoạn thân sơ chỉ vị tiền.
    Nhơn nghĩa dứt, bà con xa nhau, là vì một sự tiền bạc.
  14. Nghệ năng sở sử.
    Nghề nghiệp khiến xui. Người ta hay nói : Nghề nào quen nghề ấy.
  15. Nghề võ đánh trả thầy.
    Nghĩa là học trò chống với thầy hay là phản với thầy.
  16. Nghi nhơn mạc dụng, dụng nhơn mạc nghi.
    Nghi người chớ dùng, dùng rời chớ nghi. Trong sự chọn người, trước phải cẩn thận ; đến khi dùng người thì phải thật lòng ; vì sự người ta nghi mình thì quá hơn sự mình nghi người ta.
  17. Ngọc bất trác bất thành khí, nhơn bất học bất tri lý.
    Ngọc chẳng giồi chẳng nên giống, người chẳng học chẳng biết đạo lý. Ngọc vốn là loài đá, trơ trơ thô tục như đá, nếu chẳng dùng tay thợ trau giồi thì chẳng ra giống ngọc.
  18. Ngọc lành ai dễ bán rao.
    Có phải là vật quí thì chẳng phải bán này. (thường nói về gái nết hạnh).
  19. Ngọc lành có vít.
    Hiểu là người tốt có tì, song tì ấy cũng chẳng làm cho mất tốt.
  20. Ngọc thạch cu phần.
    Đá, ngọc đều thiêu. Hiểu nghĩa là : lửa giặc chẳng phân biệt người ngay gian, tốt xấu. Như người tốt ở lộn cùng kẻ xấu, đến lúc hổn độn, đều phải hại chung.
  21. Ngoe ngoảy như cua gãy càng.
    Làm bộ ngoe ngoảy mà khó coi.
  22. Ngồi thúng khôn bề cất thúng.
    Việc mình khó xử.
  23. Ngôn dực trường phi.
    Lời nói có cánh bay dài. Có câu rằng : Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đàng.
  24. Ngôn quá kì thật.
    Lời nói quá sự thật.
  25. Ngọn rau tất đất.
    Một ngọn rau nhỏ mọn, một tấc đất hẹp hòi, hễ ăn đặng, ở đặng, thì chẳng nên quên ơn kẻ làm chủ. Nói về ơn vua nghĩa chúa.
  26. Ngôn tất hữu trúng.
    Nói ắt có trúng. Một lời nói ra, thì biết là quân tử, tiểu nhơn ; cho nên lời nói phải cho nhằm, hay là phải trung chánh.
  27. Ngôn thiểu tri đa.
    Nói ít biết nhiều. Chẳng phải nhiều lời nói.
  28. Ngọt mật chết ruồi.
    Dịu ngọt, khôn khéo lời nói thì người ta phải mắc.
  29. Ngư mục hổn châu.
    Con mắt cá lộn với hột châu. — Nghĩa là chẳng phân biệt chơn giã, Con mắt là ngọc thì phải phân tốt xấu.
  30. Ngư thủy nhứt đoàn.
    Cá nước một đoàn. Nghĩa là sum hiệp, đồng hội hiệp vui chơi thì là Hồ, Việt nhứt gia : Đời Đàng vua Thái tông bắt cả người Hồ người Việt; người Hồ thì múa, người Việt thì làm thơ, làm ra cuộc vui chơi.
  31. Ngựa chạy đàng dài.
    Thường hiểu về lời nói. Chỉ nghĩa là không đem lời nói vào tai, hay là tâm bất tại, chẳng nhớ lời dặn bảo hoặc nghe rồi lại quên.
  32. Ngựa qua cữa sổ.
    Hiểu nghĩa là ngày giờ chóng kíp như tên bay như thỏ chạy. Nguyên câu chữ là : Bạch cu quá khích.
  33. Ngựa quen đàng cũ.
    Quen tánh ý ; chẳng chừa thói cũ.
  34. Người có tiền dể đứa tay không.
    Lấy tiền bạc làm hơn.
  35. Người đời của chung.
    Của xây vần, có thơ rằng : Nhứt đái thanh sơn kiểng sắc u, tiền nhơn điền thổ hậu nhơn thu, hậu nhơn thâu đắc mặc hoan hỉ, cánh hữu thu nhơn tại hậu đầu
  36. Người đời của tạm.
    Chiếu ứng với câu của vắn mặt dài, hay là của ăn hay hết người còn thấy nhau.
  37. Người đời khác thể là hoa, sớm còn tối mất nở ra lại tàn.
    Cũng là câu hát. Chẳng ai lột da sống đời.
  38. Nguy bất nhập, loạn bất cư.
    Hiểm chẳng vào, loạn chẳng ở. Nghĩa là phải lánh nơi nguy hiểm.
  39. Nhà giàu đứt tay cũng bằng ăn mày đổ ruột.
    Thường nhà giàu có động, sự gì một chút, thì sự thể lo lắng nhộn nhàng cũng bằng việc trọng đại.
  40. Nhà nghèo biết con thảo, nước loạn biết tôi ngay.
    Nguyên câu chữ rằng : Gia bần tri hiếu tử, quấc loạn thức trung thần.
  41. Nhắm em xem chợ.
    Phân biệt trọng khinh; đối với câu coi mặt đặt tên.
  42. Nhàn cư vi bất thiện.
    Ỡ không là đều chẳng lành. Hễ ở nhưng thì hay làm quấy cũng như ăn no sanh sự.
  43. Nhẫn nhứt thì chi khí, miễn bá nhựt chi ưu.
    Nhịn khí bất bình một thuở, khỏi lo sợ trăm ngày ; cho nên người ta nói một câu nhịn bằng chín câu lành. lại rằng : Thối nhứt bộ tự nhiên khoan.
  44. Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục.
    Vào sông theo khúc, vào nhà theo tục. — Tới dâu phải chìu theo thói phép đó.
  45. Nhảy cao đá lẹ.
    Nghĩa là có tài, hay là đang lúc bay nhảy.
  46. Nhẹ bằng lông quăng không đi, nặng bằng chì quăng xa lắc.
    Việc nhẹ bằng lông mà vụng toan thì hóa ra nặng như thái sơn, mà cất không nổi ; dẫu việc nặng bằng chì, mà biết thế lo thì trở nên nhẹ như hồng mao và quăng ném như chơi. Việc dễ hóa khó, cũng như cái lòng nhẹ, không có thế quăng.
  47. Nhĩ ngả vô thù.
    Mầy ta không không can cập, nghĩa là hai bên không có ăn thua.
  48. Nhi tôn tự hữu nhi tôn phước.
    Con cháu nghỉ có phước con cháu. Có phước thì ắt là phải có phần, chẳng khá bôn chôn, lo một sự làm giàu cho con cháu.
  49. Nhĩ vi nhĩ ngả vi ngả.
    Mầy là mầy, ta là ta. Nghĩa là ai có phần nầy, không can tới nhau.
  50. Nhiều tay vỗ nên bột.
    Đông người thì làm đặng việc.
  51. Nhiều sãi, không ai đóng cữa chùa.
    Chàng ràng không có người chủ việc.
  52. Nhiều thóc nhọc xay.
    Nhiều lúa thì mất công xay ; đa mang nhiều việc thì nhọc lòng lo.
  53. Nhờ lụt đẩy rều.
    Thừa thế mà làm hay là nhơn việc nọ mà đẩy đưa việc khác.
  54. Nhơn bất tri cổ kim, như mã ngưu nhi khâm cứ.
    Con người chẳng biết việc xưa nay, cũng như con trâu con ngựa bận áo. Con người ta không biết học thì khác trâu ngựa có một sự có quần có áo.
  55. Nhơn bất tri kỳ tử chi ác, bất tri kỳ miêu chi thạc.
    Kẻ làm cha mẹ chẳng biết thửa lỗi con ; kẻ làm ruộng chẳng biết lúa mình vượt tược. Ấy là nịch ái bất minh, tham đắc vô yểm.
  56. Nhơn các hữu chí.
    Mỗi người đều có chí riêng, như chí làm quan, làm giàu, vânvân.
  57. Nhơn chi tương tử kì ngôn dã thiện, điểu chi tương tử kì minh dã ai.
    Con người gần chết thì lời nói nghe ra hiền lành ; con chim gần chết thì tiếng kêu nó bi thương.
  58. Nhơn khổ bất tự tri.
    Người ta có đều ngặt là không biết dường sức mình, ấy là bịnh chung trong thiên hạ.
  59. Nhơn cùng tắc biến, vật cực tác phản.
    Thường hiểu biến ấy là sanh thế, còn phản ấy thì là trở trái, như cứng lắm thì gãy, lại như chó túng thì cắn, ngựa túng thì đá, chim túng thì mổ, người túng thì nói dối, làm hung ; song chính nghĩa chữ phản là phản hườn bổn tánh, như như nhơn chi tương tử kì mngôn giã thiện, vân vân.
  60. Nhơn nhơn thành sự
    Nhờ người làm nên việc, ấy là lời chê kẻ dở tài, chỉ đợi có người dìu dắc.
  61. Nhơn sanh thất thập cổ lai hi.
    Người ta sống bảy mươi tuổi thì là đều xưa nay ít có. Vậy thì chết bảy mươi đã không nên tiếc, mà sống chưa đặng bảy mươi cũng chẳng nên than.
  62. Nhơn sanh quí thích chí.
    Người ta sanh ra, đặng toại chí thì là quí. Ỡ đời quí cho đặng thanh nhàng, sung sướng.
  63. Nhơn sanh hữu tử như nhựt dạ chi đương nhiên.
    Người ta sanh ra đều có thác, cũng như ngày đêm tự nhiên phải có, nghĩa là có ngày thì phải có đêm.
  64. Nhơn tình khan lảnh noản, diện thượng trục cao đê.
    Tình người coi ấm lạnh, trên mặt dõi thấp cao. Lại có câu rằng : Nhơn tình lãnh noãn, thế thới viêm lương ; trách lòng người đen bạc mị thường, thấy ai quiền thế thì tâng trọng, thấy ai suy vi thì phụ bạc.
  65. Nhơn tử lưu danh, hổ tử lưu bì.
    Người thác để tiếng, hùm chết để da. Tốt để tiếng tốt, xấu để tiếng xấu. Trước có câu nôm rằng : Hùm chết để da, người ta chết đễ tiếng ; cũng đồng một nghĩa.
  66. Nhơn vật dử đồng.
    Nhơn vật đồng như nhau. Vật cũng đồng tri giác, lấy theo tánh tình mà luận, nó cũng hồ mị, đen bạc chẳng khác chi người.
  67. Nhơn vị tài tử, điểu vị thực vong.
    Người thác vì của, chim thác vì ăn. Người tham của, chim tham ăn, đều quên sợ chết.
  68. Nhơn vô thập toàn.
    Con người không có trọn cả mười. Ai ai cũng có tì vít, quá thất. Có câu rằng : Nhơn phi Nghiêu, Thuấn, yên năng mỗi sự tận thiện.
  69. Nhơn vô tín bất lập.
    Người không chỉ tín thì không đứng đợt hay là không nên người.
  70. Nhơn vô viễn lự, tất hữu cận ưu.
    Người không tính xa, ắt có lo sợ gần. Làm người biết lo xa, thì khỏi sợ nước tới trôn mới nhảy.
  71. Nhu nhược thắng can cường.
    Mềm yếu hơn cứng mạnh ; cho nên thiệt nhu thường tồn, xỉ can tắc chiết ; nghĩa là lưỡi mềm hằng còn, răng cứng thì gãy.
  72. Như thủy ích thâm, như hỏa ích nhiệt.
    Dường nước càng sâu, dường lửa càng nóng. Hiểu nghĩa là gây việc thêm, làm cho người ta giận ghét thêm hoặc làm dữ hơn nữa ; ấy là trợ Kiệt vì ngược. nghĩa là giúp vua Kiêt làm dữ.
  73. Nhữ tác ưng hoàn nhữ thọ.
    Mi làm, đáng về mi chịu ; chỉ nghĩa là đáng tội.
  74. Nhục huyền hổ khẩu.
    Thịt treo miệng hùm. Thế phải hiểm nghèo cùng phải hư mất.
  75. Nhược thế cầu hòa.
    Thế yếu mà cầu hòa. Bất đắc dĩ mà hòa đở ; hoặc tùng thế phải làm hòa.
  76. Nhượng nhứt bộ, thiên khoang địa khoát.
    Nhượng một bước thì trời rông, đất thông. Nếu mình biết khiêm nhượng, không giành nước trước, hoặc chịu sút người ta một bước, thì sẽ đặng an vui trong lòng, mà không thấy sự gì chật hẹp.
  77. Nhứt ẩm nhứt trác sự giai tiền định.
    Một uống một ăn đều là việc tiền định. Trong sách sấm truyền có câu rằng : Một sợi tóc rụng xuống chẳng phải hư không. Lại có câu rằng : Nhứt sanh đô thị mạng an bài.
  78. Nhứt bất tố, nhị bất hưu.
    Một là đừng làm, hai là đừng thôi, nghĩa là lỡ việc phải làm luôn.
  79. Nhứt chơi tiên nhì giỡn tiền.
    Trong sự chơi ác thì lấy hai đều ấy làm hơn.
  80. Nhứt chứng phi nhì chứng quả.
    Một chứng không thiệt, hai chứng chắc. Phép dựng chứng lấy hai người làm chắc. Vô chứng bất thành tụng.
  81. Nhứt có râu nhì bầu bụng.
    ấy là tướng sang giàu.
  82. Nhứt cử lưỡng tiện.
    Làm một việc mà lợi hai thế, chỉ nghĩa là được việc nhiều.
  83. Nhứt dạ sanh bá kế.
    Một đêm sanh trăm chước. Lòng người nham hiểm khôn lường.
  84. Nhứt đi nhì đến.
    Nghĩa là cứ thứ mà nhắc lần.
  85. Nhứt hào sai thiên lý.
    Có câu khác rằng : Hào ly chi sai. thiên lý chi mậu. Sai một mảy lông mà lỗi ngàn dặm.
  86. Nhứt là voi một ngà, nhì là người ta một mắt.
    Voi một ngà thì là voi dữ ; người một mắt, sách tướng cũng cho là người độc dữ.
  87. Nhựt một đồ cùng.
    Ngày đã xế chiều, đàng đi cùng tột. Hiểu là cảnh già, cảnh muộn, không còn đua tranh chuyện đời. Tany du vãn cảnh.
  88. Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh.
    Một nghề rong, một thân vinh hiển. Một nghề ròng một nghề, thì sẽ thành thân cùng đặng vinh hiển một đời. Người ta nói đa hư bất như thiểu thiệt, nhiều nghề thì lại chàng ràng không tinh.
  89. Nhứt ngôn khả dĩ hưng ban, nhứt ngôn khả dĩ tán ban.
    Một lời nói có lẽ dấy nước, một lời có lẽ làm mất nước. Trong một lời nói, có đều lợi hại rất lớn, chẳng khá nhẹ buông lời nói. Sở dĩ phải Tam tư nhi hậu ngôn.
  90. Nhựt nguyệt tuy minh, nam chiếu phúc bồn chi hạ.
    Mặt trời mặt trăng tuy sáng cũng khôn soi ở dưới chậu úp ; Dẫu là trí thông minh cũng còn có chỗ khuất lấp.
  91. Nhứt nhơn địch vạn.
    Một người chống muôn người. Thế chẳng chống nổi, thì là quả bất địch chúng; bằng chống nổi thì là sự phi thường.
  92. Nhứt nhựt bất kiến, như tam ngoạt hề.
    Một ngày chẳng thấy, ba tháng dường nào ! gặp nhịp không nên bỏ ; ấy là cơ hội khả thất.
  93. Nhứt nhựt bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi.
    Một ngày chẳng tưởng sự lành, các sự dữ đều tự nhiên dấy. Con người mắc khí bẩm sở câu, vật dục sở tế, nếu chẳng giữ căn bổn làm lành, thì hóa ra xấu xa, vô sở bất chí. Có câu rằng : tùng thiện như đăng, tùng ác như băng, nghĩa là cứ việc làm lành thì là đi lên, cứ việc làm dữ thì chẳng khác chi là sập xuống.
  94. Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại.
    Một ngày ở tù, ngàn thu ở ngoài ; ấy là nói về sự ở tù khốn khổ, độ một ngày dài dặc cũng bằng ngàn năm.
  95. Nhứt nhựt vi sư.
    Một ngày là thầy, Hễ có chịu người dạy dỗ, thì phải biết ơn cùng tôn kính người, chẳng luận là dạy lâu mau ; cho nên một ngày cũng là đạo thầy trò.
  96. Nhứt pháp lập nhứt tệ sanh.
    Hễ có định pháp gì mới, thì sao cũng có đều tinh tệ ; chỉ nói về tơ lại cùng chức việc làng hay bày đều thêm thắt mà ăn chẹt gánh. Ấy là nghĩa câu lịnh ít lạc nhiều.
  97. Nhứt sớm nhì muộn.
    Trong sự vãng lai ơn nghĩa cùng nhau, miễn là cho có, chẳng câu sớm muộn.
  98. Nhứt tinh chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi tân, bán cú phi ngôn ngộ tổ bình sanh chi đức.
    Lữa một đóm hay cháy củi muôn khóm, lời quấy nữa câu, hay tổn đức bình sanh. Một tiếng nói mà làm nên, một tiếng nói mà làm hư cùng thất đức.
  99. Nịch ái bất minh, tham đắc vô yểm.
    Thương quá thì không tỏ, tham lam quá hoa ra không nhàm, như câng con thì không thấy đều lỗi con. v. v.
  100. Niên nguyệt tuy đa, bất quá nhứt bổn nhứt tức.
    Năm tháng dầu nhiều, chẳng qua một vốn một lời. Phép cho vay không đặng ăn lời quá vốn.
  101. Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục.
    Thà chịu chết chẳng thà chịu nhục.
  102. Ninh vi sơn thượng hổ, bất tác phủ trung ngư.
    Thà làm cọp trên núi, chẳng làm con cá trong trả. Thà làm anh hùng một cõi, chẳng thà chịu phép người ta.
  103. Ninh vi kê khẩu, vô vi ngưu hậu.
    Xưa ngươi Tô Tần khuyên Hàn-vương là vua nước nhỏ, hiệp binh cùng nước khác, làm minh chủ mà đánh trả nước Tần, chẳng lẽ nam diện sự Tần; thà làm kê thi chẵng thà làm ngưu tùng, ấy là lời nói Tô-Tần: chính nghĩa chữ thi là làm chủ, con gà trống mạnh hay cầm bầy đi trước, ấy là làm chủ; tùng là theo sau, con trâu dở thường đi sau; làm nhỏ mà lớn thì hơn là làm lớn mà ở sau. Chữ thi giống chữ khẩu, chữ tùng giống chữ hậu, người ta mới di dịch tiếng nói. Như hiểu là thà làm miệng con gà, chẳng thà làm đít con trâu thì không nhằm nghĩa.
  104. No hết ngon, giận hết khôn.
    Tục ngữ Tây có câu rằng: giận là điên một hồi.
  105. No trong mo ngoài đất sét.
    Tích rằng: Có một đứa chăn trâu ham chơi, thường bữa bỏ trâu nhịn đói, đến khi đuổi trâu về nhà, sợ phải đòn, thì lấy mo mà đắp bụng trâu, ngoài tô đất sét, giả là trâu no. Chủ có hỏi tới thì nó cứ việc nói rằng trâu ăn no. Có một bữa con trâu tức mình liền nói ra tiếng mà rằng: no gì, no trong mo ngoài đất sét!
  106. Nợ lãnh là nợ mình.
    Kẻ bảo lãnh thường phải trả thế cho người vay.
  107. Nồi da xáo thịt.
    Da ở ngoài, thịt ở trong, lấy da làm nồi mà xáo thịt, thì chỉ nghĩa là bà con ruột trở mặt hại nhau, như kiện lộn, chưởi lộn vân vân. Xáo cũng có nghĩa là xáo lộn.
  108. Nội gia nô tỉ, xuất gia công khanh.
    Ỡ trong nhà là tôi tớ, ra khỏi nhà là công khanh; ở trong nhà phận phải làm nhỏ, có ra ngoài mới làm mặt tử tế, nghĩa là chẳng nên tranh trưởng hay là làm thể diện trong nhà.
  109. Nội gia tạo ác, ngoại kỉ tri văn.
    Trong nhà làm xấu, ngoài mình nghe biết. Trong nhà làm xấu thì là xấu tại trong nhà; ngoài mình nghe biết thì là không giấu đặng chuyện xấu.
  110. Nói hay hơn hay nói.
    Hay trước là hay giỏi, hay sau là hay liến. Nói ít mà hay, chẳng hơn là nói hoài mà dở.
  111. Nồi nào úp vung nấy.
    Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo. Có ý nói về vợ chồng, đôi lứa, mỗi đấng bạc đều xứng nhau.
  112. Nói như phát, nhát như cheo.
    Nghĩa là nhát mà hay nói lớn lối.
  113. Nói như rựa chém xuống đất.
    Ăn nói chắc chắn, không sai chậy.
  114. Nói ra gia lấy.
    Ấy là tiếng phân bua, buộc người nói phải chữ lời đã nói. Gia lấy nghĩa là buộc cho, đừng chối cải. Có câu rằng : Nhứt ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy ; nghĩa là một lời nói ra, ngựa tứ theo không kịp. Có lỡ lời nói thì phải chịu.
  115. Nữ sanh ngoại tộc.
    Gái theo họ ngoại ; ba đời dứt nghĩa gần, trai thì thế thế bất tuyệt, vì là đồng tông.
  116. Nươc chảy đâu đâu cũng tới.
    Phép buộc đâu đâu cũng buộc. Cũng hiểu là việc tràn đồng.
  117. Nước chảy lá môn.
    Trợt lớt, không đem vào tai, không nghe lời phải.
  118. Nước nóng còn có khi nguội.
    khi giận cũng có khi hiền.
  119. Nước tới trôn mới nhảy.
    Để việc thối hối mới lo.
  120. Nước xao đầu vịt.
    Lời khôn ngoan không lọt vào tai ; không biết nghe đều phải.
  121. Nuôi heo rán lấy mỡ, nuôi con đỡ chơn tay.
    Ấy là câu đầu bài cha mẹ đàng gái hay nói mà đòi của cưới đàng trai.
  122. Nuôi con không phép kể tiền cơm.
    Nuôi con là phận sự cha mẹ.
  123. Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà.
    Chứa người làm hại cho mình ; nuôi người dòm hành chuyện nhà.