Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/Phụ sót
Giao diện
PHỤ SÓT
- Ai đầy nồi nấy.
Ai có phần nấy. Có câu rằng : giàu cha giàu mẹ thì ham, giàu anh giàu chị, ai làm nấy ăn. - Ăn hả hả, trả ỷ ỷ.
Ăn thì mầng trả thì sợ. - Ăn ở xởi lởi ông trời gởi cho.
Hay làm phước thì phải gặp phước. - Ăn sẻ sẻ đẻ ông voi.
Ăn ít thua nhiều ; (cờ bạc.) - Ăn trầu cách mắt.
Nói về sự cho chác, kẻ thâm người thù. - Ăn trầu gẫm.
Suy nghĩ việc đời. - Ba mươi tuổi, sáu mươi quen.
Càng thêm tuổi, càng nhiều quen biết. - Bán trời không chừng.
Ngược xuôi, tai quái trong đời. - Bất cận nhơn tình.
Chẳng gần tánh ý người; ăn ở một mình một thế, chẳng biết xét nghĩ sự đời. - Bống biển gầy nên một nhà.
Sự thể sum vầy, hóa ra thân cận. - Cá tươi thì xem lấy mang, người khôn xem lấy hai hàng tóc mai.
Ấy là một phép coi tài tướng, - Cát nhơn thiên tướng.
Người có phước, Trời hằng chở che. - Cha chài chú chóp.
Đầu voi đuôi chuột (chóp ấy là chóp chài). - Cha hắn lú chú hắn khôn.
Chẳng lẽ dại hết cả nhà. - Chẽ tre nghe lóng.
Việc có không, phải nghe cho hẳn. - Chén trong hú chén ngoài.
Thấy rượu thì uống, say sưa quá độ. - Chim nhát là chim sống lâu.
Tiếng cười người hay sợ chết. - Chờ cho đến mạ thì má đã sưng.
Chữ mạ hiểu là mẹ, hiểu là làng, cho đến làng thì việc đã rồi. (Nói về sự ẩu đã). - Chưa có gió, mõ đã rung.
Rộn ràng thái quá. - Cơm Nai, Rịa ; cá Rí, Rang.
Gạo lúa đều nhờ đất Đồng-Nai, Bà-rịa ; con cá thì nhờ đất Phan-rí, Phan-rang. - Con dại cái mang.
Ấy là tội qui vu trưởng. - Con một cháu một bầy.
Ấy gọi là nhà có phước. - Cùng mẹ thì xa, cùng cha thì gần.
Con một cha thì là một giống. - Đa sự đa lự.
Đa mang nhiều việc, thì nhọc lòng lo. - Đầu đen máu đỏ.
Dân trời tôi vua, ấy là dử dân tề. - Đem quỉ về phá nhà chay.
Bình yên không muốn, muốn cho hư hại. - Điền liên canh gia liên cư.
Phép bán nhà đất phải vị kẻ ở gần. - Đói ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng.
Bánh vẽ ăn không đi, vàng chiêm bao không có ; cả thảy là đều hư giả. - Đời xưa trả báo mà chầy, đời nay trả báo một giây nhãn tiền.
Ấy là báo ứng nhản tiền, hay là báo ứng trước mắt. - Giàu trẻ chớ mầng khó trẻ chớ lo.
Đàng đi ở đời hãy còn xa xác, có giàu cũng không nên ỷ, có nghèo cũng đừng sợ, cũng là tiếng khuyên khích. - Kẻ ăn mắm, người khát nước.
Gánh vác chuyện vô can ; kẻ ăn người chịu. - Kẻ tham công người tiếc việc.
Kẻ muốn cho đặng việc, người lại tiếc công. - Kẻ thâm người thù.
Kẻ hậu người bạc. - Không voi bò làm lớn.
Túng phải dụng đỡ ; chưa gọi là lớn - Lính ban mai cai lính ban chiều.
Ma cũng ăn hiếp ma mới. - Ma cũ ăn hiếp ma mới:
Kẻ tầng việc ăn hiếp kẻ còn bợ ngợ. - Mặt chay mày đá.
Lỳ lợm chẳng biết xấu hổ. - Nghị huyện tri thủy.
Con kiến biết chỗ có nước mà làm ổ. Thuở xưa ông Quản-trọng đi đánh giặc phương xa, quân lính khát nước, người dạy coi chỗ nào có hang kiến, đào xuống thì có nước. (Đối câu lão mã tri đạo.) - Nước gáo tắm cho voi.
Nước múc từ gáo nhỏ mà tắm cho voi, chỉ nghĩa là chẳng thấm tháp. - Oan gia nghi giả bất nghi kiết.
Tiếng khuyên người đời phải làm hòa chẳng nên gấy oán gây thù.
ĐÍNH NGOA.
Câu 37. Bẻ nạn chống trời. chữ nạn cải là chữ nạng.
Câu 16. Quân tử dỉ chí khí tương kì.
- Người quân tử lấy ý chí hẹn haɥĩu. Đông một chí ý, chẳng luận xa gần, haú trước, ngn nviệc đều giống nhau. Phải cải là người quâ tử lòng dạ đều giống nhau, không hẹn cũng như hẹn.