Bước tới nội dung

Thơ Đỗ Phủ/11

Văn thư lưu trữ mở Wikisource



NHỮNG THƠ LÀM TRONG ĐỜI VĨNH-THÁI, THI-SĨ Ở THÀNH-ĐÔ, RỒI SANG VÂN AN VÀ Ỡ LẠI QUỲ-CHÂU

CCX. — LÀNG SÔNG NGÀY XUÂN

Bờ-bờ sông xoáy lở,
Xóm xóm ruộng đương cầy.
Muôn dậm nhìn Trời Đất.
Trăm năm uổng tháng ngày!
Nguồn Đào nào cảnh đẹp?
Mái cỏ gợi thơ hay...
Sinh-kế lòng không thiết
Long đong mãi đến rầy!

CCXI. — TUYỆT CÚ

I

Sóng động, trăng dời đá...
Khe không, mây rợp hoa...
Chim về quen lối cũ...
Buồm vượt đậu đâu xa?

II

Hai cái oanh vàng chuyền liễu biếc...
Một đàn cò trắng vạch trời xanh...
Nghìn thu tuyết núi soi song cửa...
Muôn dậm thuyền sông đậu trước mành.

CCXII. — CHỚ NGỜ NHAU.

Kiếp làm trai chẳng được việc gì đầu trắng phớ!
Hàm răng đáng tiếc sắp long-lở!
Nhớ xưa dâng phú cung Bồng-Lai,
Một sớm tiếng-tăm lừng tứ-xứ!
Các quan đứng sắp như bức tường,
Xem ta viết giữa Trung-Thư-đường!
Khi ấy văn-chương động vua chúa!
Bây giờ đói rét chạy cùng đường!
Tuổi già đánh bạn cùng phường trẻ,
Mặt tuy tử-tế, lòng khinh rẻ!
Ai đấy? ta xin nhắn một câu:
Đừng hoài ghen ghét! chớ ngờ nhau!

CCXIII. — NGU ĐẬU TRẠM THANH-KHÊ, NHỚ ANH VIÊN-NGOẠI TRƯƠNG-CHI-TỰ

Buông thuyền giữa nghìn núi.

Đậu bến trời vừa tối,
Chốn này là chốn nào?
Thân ta vốn trôi-nổi.
Chen đá, rừng phong xanh,
Chim, vượn đua kêu, gọi!
Trăng sáng khách âm-thầm.
Sợ hùm không dám nói.
Nửa đêm nhớ bạn hiền.
Cách trở khôn thăm hỏi.
Trước, sau sóng mông mênh,
Sang Sở này đây lối.

CCXIV. — KHÓC TIỄN LINH-CỮU QUAN BỘC-XẠ NGHIÊM VŨ,

Màn trắng theo dòng nước.
Thuyền xa kinh cũ Về.
Lính hầu khác buổi trước.
Bạn hữu vẫn xưa kia...
Rinh Tướng trời man-mác.
Hòm gươm gió nặng nề.
Thác chiều lên tiếng khóc,
Sống, chết, buổi chia-lìa...

CCXV. — NỖI LÒNG ĐÊM QUÊ NGƯỜI

Thuyền buồm, đêm quạnh quẽ;
Bờ cỏ gió mơn man;
Sao chếch cánh đồng rộng;
Trăng nhô mặt nước tràn...
Văn-chương chi bận tiếng!
Già ốm phải về quan!
Trời đất thân xiêu dạt!
Khác đâu âu lạc đàn!

CCXVI. — NHỚ NHÀ CŨ BÊN SÔNG GẤM.

Vườn xưa, nhà cũ nơi mô?
Nam cầu muôn dậm, Bắc hồ Trăm-Hoa!
Từng hiên sông trước quay ra.
Quen sương một rặng cây già chơi vơi...
Trắng phau núi tuyết ngất trời!
Vàng-lòe thành Gấm rọi soi bóng tà!
Bao nhiêu phong cảnh mặn mà?
Quay về lòng những xót-xa bồi-hồi...

CCXVII. — TUYỆT CÚ

I

Năm trước châu Du giết Thử-sử;
Năm nay châu Khai lại giết nữa!

Nuốt người còn để sống vợ, con
Quân giặc ác hơn lũ hùm rữ!

II

Hai mươi mốt nhà vào đất Thục,
Chỉ còn một người ra Lạc-Cốc!
Giằng tay bỏ lại hai gái thơ,
Quay lại mây Tần xùi-xụt khóc.

III

Quan quân nghe nói khá hùng-cường...
Cướp phá không thua lũ giặc Mường!
Trong trại chứa nhiều con gái lắm!
Giết người, lấy của sự chi thường!

CCXVIII. — MỒNG MỘT THÁNG CHẠP

I

Sớm nay tháng chạp chớm xuân sang.
Trước huyện Vân-An sông đáng thương...
Ngược nước, thuyền ai thác trăm trượng?
Đưa thư, nhạn lạc trời một phương!
Mắt buồn chửa thấy hoa mai nở.
Tết tới mong tìm chén rượu suông!
Bệnh phổi bấy lâu đau yếu mãi.

Bao giờ đài-các mới nghênh-ngang!

II

Mái núi xa trông én liệng vào.
Oánh vàng rừng biếc ở nơi nao?
Lơ-thơ áo khách vương tơ liễu,
Lý-tý bên sông nhuốm nụ đào.
Già tới gặp đâu bè bạn cũ!
Xuân sang tính sẵn cuộc chơi hào...
Mai ngày một chén thêm khôn uống,
Sức yếu, nhà xa bận xiết bao!

CCXIX. — GỬI THƯỜNG TRƯNG-QUÂN[1]

Nước bạc, non xanh vắng vẻ xuân!
Tuổi già lăn lộn với phong trần!
Gái xinh trong tiệc khoe nhan sắc!
Hạc bể bên thềm hót chủ-nhân!
Việc bận, thì giờ đâu luyện thuốc?
Quan sang, ngày tháng dễ yên-thân!
Châu Khai hè tới trời còn mát!
Không quá nồng như ở huyện Vân...

CCXX. — DI CƯ SANG QUỲ-CHÂU

Vân-An đã nằm mãi.
Bạch Đế thử sang xem.
Liễu tiễn trời xuân vắng.
Thuyền buông mặt nước êm.
Mùa về nghe chuyện khách.
Ngàn nắng rõ tình chim.
Mở núi công vua Vũ,
San-siu dấu sẽ tìm.

CCXXI. — VIẾT NHĂNG...

Trăng sông cách mặt chừng vài thước...
Đèn gió soi khuya sắp nửa đêm...
Tiếng cá vượt thuyền nghe lõm bõm...
Bóng cò ngủ bãi đứng im-lìm...

CCXXII. — LẦU CAO NHẤT TRÊN THÀNH BẠCH ĐẾ

Lối hẹp, cờ, tàn gió cuốn xô!
Một mình lầu chắm đứng xo-ro!
Lẩn mây, núi vắng hùm, rồng ngủ!
Rỡn nắng, dòng trong cá, giải đua!
Nhược-Thủy[2] bóng theo sông uốn-éo!

Phù-Tang[3] cành phất đá lô-nhô!
Than đời ai kẻ đương lẽ gậy?
Đầu bạc quay nhìn lê máu khô!

CCXXIII. — MIẾU VŨ-HẦU (Khổng Minh)

Miếu cổ vàng son lạt,
Rừng không cây cỏ xanh!
Chỉ nghe ra mặt trận.
Không thấy lại nhà tranh...

CCXXIV. — BÁT-TRẬN-ĐỒ[4]

Ba nước công to nhất.
Nghìn thu thế trận bền,
Nuốt Ngô bao hả giận?
Nước chẩy đá còn nguyên!

CCXXV. — CÂY TRẮC CỔ

Trước miếu Khổng-Minh cây trắc cỗi,
Cành như đồng đen, gốc sắt nguội!

Lá hai nghìn thước rợp trời xanh!
Thân bốn mươi vừng truội mưa dội!
Vua-tôi gặp gỡ thời đã qua,
Người còn thương tiếc cho cây cối!
Lạnh thông núi Tuyết lúc trăng lên!
Hơi liền đỉnh Giáp khi mây nổi!
Hôm trước đường qua lối Cẩm Thành,
Đền Tiên-Chúa bên đền Khổng Minh!
In trong cửa vắng mầu sơn-vẽ;
Rợp cánh đồng hoang bóng cỗi-cành!
Rễ dù có thế ăn nhiều đất,
Gió chịu riêng vì đứng một mình!
Ngay thẳng nguyên nhờ ơn Tạo-hóa.
Bù-chi may được sức thần-minh!
Nhà lớn cột, rường cần chống chọi,
È cổ muôn trâu, nặng tầy núi!
Chưa pha lõi rác chúng sợ rồi!
Tha hồ đẵn chặt ai đưa nổi!
Lá thơm vẫn đón phượng, loan chơi!
Lòng hổng đau khi kiến, mối xơi!
Chí-sĩ, nhân-nhân đừng vội tủi:
Xưa nay tài lớn khó dùng đời!

CCXXVI. — VÁC CỦI.

Gái châu Quỳ tóc đầu bạc nửa,
Bốn, năm mươi còn chửa có chồng!
Loạn lên, ế lại càng đông!
Một đời ôm mối hận lòng kêu ai!
Thói tục vẫn trọng trai, khinh gái
Trai ở nhà, gái phải ra đi!
Đi rừng kiếm củi đem về...
Về đem chợ bán để chi dụng thường...
Đến già, tóc chỉ ngang tầm cổ!
Lá, hoa rừng, ấy đó thoa, trâm...
Lại còn đào muối trong hầm,
Vào sinh, ra tử chăm-chăm kiếm lời!
Áo mỏng mảnh, ngàn khơi lạnh ngắt!
Vết lệ sa đầy mặt vắn, dài!
Phải rằng nhan sắc kém ai:
Chiêu Quân thuở trước vốn người quê đây!

  1. Trưng-Quân, người ẩn-sĩ được vời ra làm quan.
  2. Nhược-Thủy, bể ở ngoài đảo Bồng-Lai.
  3. Phù-Tang, cây dâu lớn mọc ở nơi mặt trời mọc.
  4. Thế trận do Khổng Minh bầy bằng đá vụn, ở bên sông gần huyện Phụng Tiết