Thơ Tản Đà/28

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Dịch bài Bình Ngô đại cáo

Vua Lê Thái-tổ đã dẹp yên giặc Minh,
có nhời bá-cáo cho quốc-dân cùng biết.

Mở nhân nổi nghĩa, cốt lấy yên dân;
Dẹp loạn cứu dân, chẳng qua trừ bạo.
Như nước đại Việt ta thử nghĩ,
Thật là văn hiến không kém ai.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần mở mặt giang sơn;
Cùng Hán, Đường, Tống, Minh, chia ngôi vương đế.
Mới rồi,
Chỉ nhân vì chính-trị họ Hồ, phiền nhiễu độc ác;
Xui nên nỗi lòng người trong nước, oán phản chia tan.
Người nước Minh nhân được dịp sang ta;
Lũ gian ác lại cùng nhau bán nước.
Từ khi ấy giở lại,
Kể có hai mươi năm.
Dướch đường nhân nghĩa, phũ sức binh đao nghĩ nỗi thảm không còn giời đất.
Rộng mẹo gian thâm, nặng điều thuế dịch, đầy túi tham vét hết non sông.
Thiên địa chẳng dung,
Quỉ thần cũng giận.

Ta đây,
Từ núi Lam nổi bước,
Nơi hẻo lánh nương thân;
Hơn mười năm đau ruột nát gan,
Trải bao độ nằm gai nuốt đắng.[1]
Gươm thần mới mở,
Thế giặc đương to.
Khôi-huyện quân tàn,
Linh-sơn lương hết.
Bốn phương họp những phường xiêu rạt, ngọn tre cờ hiệu phất nên đồ.
Ba quân cùng một dạ cha con, hớp rượu giòng sông say vị nghĩa.[2]
Vậy rồi mà,
Lấy quân nhân nghĩa,
Thắng kẻ hung tàn.
Lũ giặc kia hết khỏe hết khôn, bó tay chịu chết.
Quân ta chỉ dùng mưu dùng kế, cưỡi cổ như chơi.
Loài hổ lang đà đến lúc sa cơ,
Lượng giời bể ta cũng tha làm phúc.
Trước cấp cho Tham-tướng Phương-Chính, Nội-quan Mã-Kỳ, thuyền hơn năm trăm chiếc; qua sông thôi mà còn như mất vía kinh hồn.
Lại cấp cho Tổng-binh Vương-Thông, Tham-chính Mã-Anh, ngựa hơn mấy nghìn con; về nước đó mà càng vẫn ghê lòng sởn gáy.

Lũ kia đã sợ chết tham sống, mà thật bụng giảng hòa.
Ta đây lấy toàn quân làm hơn, để cùng dân yên nghỉ.
Ôi nghĩ như,
Một chiếc áo nhung, chín phương yên định,[3] trải mười thu giờ mới thấy đây.
Từ nay bốn bể, muôn kiếp thanh bình; khắp trăm họ nhủ cho cùng biết.

nguyên-văn

旅。揭竿爲旗。氓隸之徒四集。投醪饗 
日。靈山之食盡兼旬。瑰縣之衆無一 
日。當義旗初起之秋。正賊勢方張之 
首者垂十餘年。嘗膽臥薪者蓋非一 
亦怒。予奮跡藍山。棲身荒野。痛心疾 
厚歛山澤罔有孑遺。天地不容。鬼神 
十年。敗義傷仁。乾坤幾乎欲息。重科 
詭計蓋千萬狀。連兵結釁。稔惡殆二 
民惡黨懷姦。竟以賣我國。欺天罔民。 
使人心之怨叛。明人伺隙。因以毒我 
明而各帝一方。頃因胡政之煩苛。致 
自趙丁李陳之肇造我國。與漢唐宋 
去暴。如我大越之國。實爲文獻之邦。 
仁義之舉。要在安民。弔伐之師。莫先 
清。誕布維新之誥。 
戎大定。迄成無競之功。四海永 
全軍爲上而欲民與息。於戲。一 
既畏死貪生。而修好有誠。予以 
匹。已還國而益自股慄心驚。彼 
王通。參政馬瑛。又給馬五千餘 
既渡江而猶且魂飛魄散。總兵 
政。內官馬騏。先給艦五百餘艘。 
予亦體上帝好生之心。參將方 
既掉殘卒乞憐之尾。神武不殺。 
而心攻。不戰自屈。賊首成擒。彼 
智窮而力盡。束手待亡。我謀伐 
而勝凶殘。以至仁而易彊暴。彼 
士。父子之兵一心。卒能以大義 
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khứ bạo. Như ngã đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán, Đường, Tống, Minh nhi các đế nhất phương. Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà, chí sử nhân tâm chi oán bạn. Minh nhân tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc. Khi thiên võng dân, quỉ kế cái thiên vạn trạng. Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, càn khốn cơ hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn trạch võng hữu khiết di. Thiên địa bất dung, quỉ thần diệc nộ. Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang giã, thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên; thường đởm ngọa tân giả, cái phi nhất nhật. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thu, chính tặc thế phương trương chi nhật. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu dao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo tàn tốt khất lân chi vĩ; thần võ bất sát, dư diệc thể Thượng đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương-- Chính, Nôi-quan Mã-Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư xưu, ký độ giang nhi do thả hồn phi phách tán; Tổng-binh Vương-Thông. Tham-chính Mã-Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký úy tử tham sinh nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng nhi dục dân dữ tức. Ô hy! Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh thanh, đản bá duy tân chi cáo.
  1. Trong khi vua Câu-Tiễn nước Việt mưu báo thù nước Ngô, thường nằm trên đống gai, nếm vị mật đắng, chí để không quên sự báo thù vậy.
  2. Vua Câu-Tiễn đánh Ngô, đóng quân trên bờ sông, có người dâng một chai rượu ngon, Vua sai đem đổ xuống sông, cho quân lính đều đón ở giòng dưới mà uống.
  3. Trong sách Mạnh-tử có câu: « Nhất nhung y nhi thiên hạ đại định 一 戎 衣 而 天 下 大 定 » là nói vua Võ-vương nhà Chu mặc một chiếc áo nhung (áo mặc để ra trận) mà yên định được thiên-hạ.