Bước tới nội dung

Thần phù hải khẩu

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Thần phù[1] hải khẩu - 神符海口
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

故國歸心落雁邊
秋風一葉海門船
鯨噴浪吼雷南北
槊擁山連玉後前
天地多情恢巨浸
勳名此會想當年
日斜倚棹滄茫立
冉冉寒江起暮烟

Cố quốc qui tâm lạc nhạn biên ;
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình phun lãng hống lôi nam bắc ;
Sáo ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm ;
Huân danh thử hội tưởng đương niên[2].
Nhật tà ỷ trạo[3] thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khỉ mộ yên.

Lòng về quê cũ đi theo chỗ chim nhạn đậu.
Chiếc thuyền ở cửa biển như chiếc lá giữa gió thu.
Sóng rống như kình phun, sấm gầm ở nam và bắc,
Núi liền như giáo dựng, ngọc bày cả trước và sau.
Trời đất đa tình, mở vụng biển lớn ;
Công danh hội ấy, nhớ lại năm nào.
Lúc mặt trời xế, dựa chèo đứng giữa mông mênh.
Ngùn ngụt sông lạnh chiều hôm nổi khói.

   




Chú thích

  1. Thần Phù: Cửa biển xưa ở giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, nay đã bị lấp, chỗ cửa cũ nay cách bờ biển quá chục cây số. Xưa là cửa biển nhiều sóng gió nên có câu: « Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm »
  2. Nhớ lại công của Hồ Quý Ly lấy đá lấp sông thông với cửa Thần Phù để chống quân Minh
  3. Bản Dương Bá Cung chép là « thái trạo », các bản khác chép là « ỷ trạo »