— Hình nào đâu?
— Hình treo trên cữa buồng của thẩy đó.
— Hình người bịch khăn đen đó phải hôn?
— Ờ.
— Mầy nói bậy.
— Mầy cứ nói tao nói bậy hoài; tao chắc rằng hai người ở trong nhà đây không phải là cha mẹ mầy; nếu mầy không tin tao thì để thủng thẳng rồi mầy coi.
— Sao mầy dám nói như vậy?
— Mầy nói má nuôi mầy xí được mầy hồi mầy mới năm sáu tháng. Hồi đó mầy mặc áo tốt mà lại có đeo dây chiền đồ nữa, thì chắc mầy là con nhà giàu. Người nầy nghèo quá đâu có áo tốt mà cho mầy bận?
— Không biết chừng hồi trước tía má tao giàu rồi sau mới nghèo.
— Tao cũng cho mầy cải sướt cái đó đi. Tía má mầy mất mầy đã 14, 15 năm nay, sao thuở nay không kiếm để đến bây giờ mới kiếm mà nhìn? Mà chớ chi tía má mầy giàu có hoặc không có con, thì kiếm mầy cũng cho là phải, chớ người đó bộ nghèo quá mà con tới 5 đứa, trai gái có đủ, không có áo quần cho nó bận còn đi kiếm thêm mầy đem về nữa mà làm gì?
— Mầy nói nghe kỳ quá! Ai có con lại không thương; nói như mầy vậy hễ có con nhiều thì nó còn hay là nó mất cũng không cần gì hay sao?
— À, mầy nói tía má mầy thương tiếc mầy nên mới tìm mầy phải hôn?
— Chớ sao.
— Ai cũng vậy, mất con 14, 15 năm nay thương nhớ nó lắm nên tìm nó mà nhìn. Nếu gặp mặt con thì tự nhiên mừng rỡ, nhứt là bà mẹ ôm con mà khóc, chớ sao hồi hôm mầy bước vô nhà tía má mầy bản-lản bơ-lơ, không mừng rỡ chút nào, không rờ tới mình mầy, mà cũng không hỏi thăm coi nhỏ lớn ai nuôi mầy, mầy ở chỗ nào, có cực khổ đau ốm gì hay không?
— Tại hồi hôm má tao mắc dỗ em ngủ, còn tía tao tánh lạc-lẻo nên không mừng rỡ cho lắm chớ.